Tìm trên trang KT-XH
Báo cáo kinh tế - xã hội năm 2018 và nhiệm vụ, kế hoạch năm 2019
13/12/2018 2:02:PM

I. TÌNH HÌNH CHUNG

Năm 2018, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và nhân dân trên địa bàn huyện, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; các ngành, lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế phục hồi và phát triển tốt, đặc biệt là dịch vụ, du lịch ngày càng phát huy lợi thế, là điểm đến của du khách trong và ngoài nước; khu vực nông nghiệp mặc dù chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu nhưng vẫn tăng trưởng khá. Cải cách hành chính đạt kết quả rõ nét từ huyện đến các xã, thị trấn. Thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác quản lý đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn được tăng cường; các hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí diễn ra sôi nổi; các mục tiêu an sinh xã hội và đời sống nhân dân được quan tâm; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Bên cạnh những những kết quả đạt được, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức đó là: Việc thu hút đầu tư có bước tăng trưởng nhưng vẫn chưa thực sự có hiệu quả, nhiều dự án lớn, trọng điểm triển khai chưa đúng tiến độ như Đê chắn sóng cảng Chân Mây, Bến cảng số 2 – Cảng Chân Mây, Mở rộng Hầm đường bộ Hải Vân… đã làm ảnh hưởng lớn đến tổng vốn đầu tư toàn xã hội và thu ngân sách trên địa bàn; tình trạng vận chuyển, khai thác lâm sản trái phép, lấn chiếm đất rừng diễn biến phức tạp; hoạt động khai thác cát, đất, đá trái phép tại Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô chưa được xử lý hiệu quả, làm ảnh hưởng đến môi trường; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao quần chúng phát triển chưa toàn diện; kỷ luật, kỷ cương hành chính nhiều nơi còn chưa nghiêm, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức một số nơi còn hạn chế; tình trạng khiếu nại, khiếu kiện đông người diễn ra ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng; ô nhiễm môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm còn diễn biến phức tạp...

Để hạn chế thấp nhất những tác động xấu do các yếu tố không thuận lợi gây ra, UBND huyện đã kịp thời quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết của Tỉnh và các nhóm giải pháp tại Nghị quyết số 01/NQ-CP này 01/01/2018 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018. Tình hình kinh tế - xã hội và sản xuất kinh doanh được duy trì ổn định, cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu theo Nghị quyết số 29/2017/NQ-HĐND ngày 19/12/2017 của HĐND huyện như sau:

TT

Chỉ tiêu

KH 2018

Thực hiện 2018

Tỷ lệ % so với KH

1

Giá trị sản xuất (tỷ đồng)

20.197

20.311

100,6

 

Ngành dịch vụ

11.900

12.000

100,8

Ngành công nghiệp -  xây dựng

6.910

6.925

100,2

Nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản

1.387

1.386

100,0

2

Thu nhập bình quân đầu người (tr.đồng)

45

45

Đạt

3

Sản lượng lương thực có hạt (1.000 tấn)

40,05

40,832

102,0

4

Tổng đầu tư toàn xã hội (tỷ đồng)

7.000

6.470

92,4

5

Thu ngân sách NN trên địa bàn (tỷ đồng)

148,752

169,420

114,0

Thu cân đối ngân sách (tỷ đồng)

139,42

160,07

115,0

6

Tỷ lệ hộ nghèo (%)

6,47

5,81

Đạt

7

Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng (%)

8,0

7,5

Đạt

8

Tạo việc làm mới bình quân hàng năm (người)

2.200

2.200

Đạt

9

Tỷ lệ lao động được đào tạo (%)

57,0

57,0

Đạt

10

Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch (%)

79,5

80,0

Đạt

11

Tỷ lệ đô thị hóa (%)

16,2

16,2

Đạt

12

Số xã đạt chuẩn Nông thôn mới (xã)

Tăng 1-2

Tăng 2

Đạt

13

Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân (% trở lên)

≥ 92

92,0

Đạt

II. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

1. Tình hình sản xuất, kinh doanh:

a) Ngành dịch vụ: Các loại hình dịch vụ có bước phát triển khá, đa dạng và phong phú hơn. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ khoảng 12.000 tỷ đồng, đạt 100,8% kế hoạch, tăng 19,3% so với năm 2017.

Hoạt động du lịch trên địa bàn huyện diễn ra khá sôi động, các khu du lịch, bãi tắm biển, điểm du lịch sinh thái đã thu hút và đón nhiều lượt khách đến tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng; tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch đạt nhiều kết quả cao, cơ sở vật chất du lịch được đầu tư đầy đủ tiện nghi phục vụ nhu cầu du khách Nhìn chung, chất lượng sản phẩm du lịch và thái độ phục vụ tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn ngày càng được nâng cao; một số doanh nghiệp, nhà đầu tư đã đầu tư, mở rộng quy mô các cơ sở phục vụ du lịch để đón khách trong dịp Festival Huế và mùa du lịch năm 2018.

Hoạt động thương mại có nhiều khởi sắc. Thị trường nội địa được khai thác có hiệu quả, hoạt động lưu thông ngày càng phát triển đã đáp ứng được nhu cầu đa dạng và phong phú về hàng hoá, dịch vụ cho đời sống nhân dân. Cùng với việc phối hợp các doanh nghiệp tăng cường triển khai nhiều chương trình khuyến mãi phong phú, thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng là những yếu tố chủ yếu làm kích thích việc tiêu thụ sản phẩm ngày càng tăng, tạo động lực thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Công tác kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong kinh doanh được thực hiện thường xuyên, thông qua việc kiểm tra giá cả hàng hóa, niêm yết giá, dự trữ hàng hóa, hệ thống phòng cháy chữa cháy… nhằm thực hiện tốt văn minh thương mại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng khoảng 3.700 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch và tăng 17,4% so với năm 2017.

Hoàn thành công tác chuyển đổi mô hình quản lý, kinh doanh, khai thác chợ Vinh Hiền (xã Vinh Hiền), chợ Nong (xã Lộc Bổn); xúc tiến, xây dựng phương án đầu tư chợ kết hợp trung tâm thương mại tại thị trấn Lăng Cô theo quy hoạch.

Dịch vụ vận tải ngày càng phát triển mạnh, chất lượng các dịch vụ vận tải hàng hóa và hành khách ngày càng được nâng cao dịch vụ vận tải công cộng bằng xe buýt ngày càng phát triển, đã mở thêm tuyến mới và tăng cường nhiều đầu xe phục vụ nhu cầu đi lại của người dân. Dịch vụ cảng biển ngày càng phát huy thế mạnh, là cửa ngõ hướng ra biển Đông gần nhất và thuận lợi nhất đối với khu vực hành lang kinh tế Đông – Tây nên lượng hàng hóa qua cảng ngày càng tăng; cùng với việc nhiều hãng tàu biển lớn trên thế giới đã chọn cảng Chân Mây là điểm đến, đưa hàng trăm nghìn lượt khách quốc tế đến tham quan du lịch

 Các loại hình dịch vụ khác ngày càng phát triển, từng bước tạo lập thị trường, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

b) Ngành công nghiệp: Tiếp tục có những chuyển biến tích cực, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh khá ổn định, dần tháo gỡ khó khăn về vốn và thị trường tiêu thụ. Giá trị sản xuất 2.445 tỷ đồng, đạt 100,6% kế hoạch và tăng 12,6% so với năm 2017; trong đó, sản xuất công nghiệp 1.910 tỷ đồng, tiểu thủ công nghiệp 535 tỷ đồng.

Hoạt động sản xuất công nghiệp từng bước phát triển, tận dụng được lợi thế sẵn có về nguồn nguyên liệu và nguồn nhân lực dồi dào, cùng với chính sách ưu đãi của tỉnh khi đầu tư vào khu công nghiệp và sự quan tâm tạo điều kiện của chính quyền địa phương để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh ổn định, một số doanh nghiệp có năng lực sản xuất cao đã đưa vào hoạt động. Đồng thời, hệ thống hạ tầng giao thông cơ bản đã hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi về vận chuyển hàng hóa đã góp phần vào mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp.

Các ngành nghề TTCN chủ yếu trên địa bàn huyện tập trung các lĩnh vực: mộc mỹ nghệ, chế biến nông, lâm sản, khai thác và sản xuất VLXD, chế biến thủy hải sản, sản xuất dầu tràm, chế biến thực phẩm… có giá trị sản xuất ổn định, các sản phẩm hàng hóa được chú trọng về chất lượng, mẫu mã đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng tại địa phương, trong tỉnh và ngoài tỉnh. Bên cạnh đó, với sự vào cuộc của các cơ quan chức năng, đã và đang xây dựng được các quy chế quản lý, sử dụng, chế biến sản phẩm, con dấu nhận diện thương hiệu…

Chương trình khuyến công tiếp tục thực hiện có trọng điểm. Đã phối hợp với Sở Công Thương triển khai Đề án “Đầu tư ứng dụng máy móc thiết bị sản xuất sản phẩm thủy hải sản khô” của Cơ sở Chế biến thủy hải sản Mỹ Á, với tổng kinh phí thực hiện là 85.600.000 đồng (trong đó, đề nghị nguồn kinh phí khuyến công hỗ trợ 42.800.000 đồng). Về chương trình khuyến công sử dụng vốn ngân sách huyện năm 2018, đã triển khai 04 đề án với tổng kinh phí thực hiện 270.000.000 đồng (trong đó nguồn kinh phí khuyến công hỗ trợ: 110.000.000 đồng).

Chương trình xúc tiến thương mại: tổ chức triển khai cho các cơ sở, doanh nghiệp đăng ký tham gia các hội chợ thương mại, kết nối phát triển thị trường, đưa hàng Việt về nông thôn…

Lĩnh vực quản lý điện nông thôn: Tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước về an toàn, tiết kiệm trong sử dụng điện, nhất là các tháng cao điểm sử dụng điện trong mùa hè; kiểm tra việc thực hiện giá bán lẻ điện nông thôn, đảm bảo cấp điện ổn định phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Tỷ lệ hộ sử dụng điện năm 2018 đạt 99,89%.

c) Ngành nông nghiệp: Giá trị sản xuất 1.387 tỷ đồng, đạt kế hoạch và tăng 8,9% so với cùng kỳ. Sản lượng lương thực có hạt 40.832 tấn, đạt 102,0% kế hoạch, tăng 2,4% so cùng kỳ (sản lượng thóc 40.786 tấn); sản lượng khai thác thủy sản khoảng 7.500 tấn, đạt 101,07% kế hoạch, bằng 101,35% so với cùng kỳ (khai thác biển 5.580 tấn, sông đầm 1.920 tấn); sản lượng gỗ khai thác rừng trồng là 102.000 m3.

Trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng cả năm 8.418,1 ha, đạt 93,5% so với kế hoạch, bằng 94,8% so với cùng kỳ.

Sản xuất lúa vụ Đông Xuân: Diện tích gieo trồng 3.772,1 ha, đạt 100,6% so với kế hoạch, bằng 101,2% so với cùng kỳ; tỷ lệ giống xác nhận, nguyên chủng đưa vào sản xuất đạt trên 95%; về cơ cấu giống vụ Đông Xuân năm nay đã đưa vào các giống năng suất, chất lượng cao như HN6 300 ha, LDA1 450 ha, KH1 750 ha, Thiên ưu 8 180 ha,... đây là các giống mới có khả năng thâm canh cao, kháng sâu bệnh, chống đỗ ngã tốt, là điều kiện để bà con nông dân đầu tư thâm canh tăng năng suất; tổ chức sản xuất giống tại chỗ được 100 ha/11 đơn vị; chỉ đạo các HTX thực hiện mô hình cánh đồng mẫu 320 ha; thực hiện cánh đồng thâm canh 689 ha/37 xứ đồng ở 18 đơn vị. Năng suất lúa đạt 61,14 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha so với vụ ĐX 2016 - 2017, sản lượng 23.073 tấn.

Sản xuất lúa vụ Hè Thu: Diện tích gieo trồng 2.896 ha, đạt 93,4% kế hoạch, bằng 100,4% so với cùng kỳ; năng suất đạt 61,2 tạ/ha, sản lượng 17.713 tấn.

Thực hiện Đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên diện tích lúa thiếu nước, vụ Hè Thu thực hiện trên địa bàn 05 xã gồm: Lộc Tiến, Lộc Vĩnh, Vinh Giang, Vinh Hải và Vinh Hiền; tổng diện tích thực hiện 55,23 ha, đạt 144,7% so với kế hoạch, trong đó: Diện tích chuyển đổi có hỗ trợ của nhà nước là 33,3 ha (Lạc 16,78 ha, Dưa hấu 16,45 ha); diện tích dân tự chuyển đổi là 22 ha, gồm: Lạc 5 ha, khoai lang 5 ha, dưa hấu các loại 12 ha. Qua đánh giá hiệu quả thực hiện, dưa hấu năng suất bình quân 30 tấn/ha, với giá bán 4.000 đồng/kg đem lại thu nhập bình quân 120 triệu đồng/ha, cao gấp 3-4 lần so với sản xuất lúa; lạc năng suất bình quân đạt 20 tạ/ha, thu nhập 50 triệu đồng/ha.

Chăn nuôi: Tiếp tục duy trì đàn trâu 5.298 con đạt 99% kế hoạch, bằng 101,3% so với cùng kỳ; bò 3.688 con đạt 97% kế hoạch, bằng 99% so với cùng kỳ; gia cầm 573.070 con đạt 121,9% kế hoạch; lợn 20.973 con đạt 104,8% kế hoạch; dê 1.136 con đạt 87,3% so với kế hoạch. Về giá cả, từ đầu năm tăng trở lại, do vậy đã ổn định sản xuất, chất lượng đàn ngày càng được tăng lên nhờ công tác giống và thay đổi phương thức chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp; đàn bò lai tiếp tục sinh trưởng và phát triển tốt.

Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm như: tiêm phòng, vệ sinh tiêu độc khử trùng, chốt chặn, kiểm tra, kiểm soát giết mổ, nên về cơ bản các loại dịch bệnh nguy hiểm không xảy ra. Tăng cường công tác hướng dẫn các biện pháp phòng chống dịch bệnh, chăm sóc cho đàn gia súc, gia cầm, vệ sinh chuồng trại, tiêu độc khử trùng ở các điểm có nguy cơ và lò mổ.

Lâm nghiệp: Công tác quản lý và bảo vệ rừng được quan tâm chỉ đạo tích cực, bằng nhiều hình thức; trong năm đã phát hiện, bắt giữ và xử lý 33 vụ vi phạm, khối lượng lâm sản tịch thu 8,205 m3 gỗ các loại, 10 cưa xăng, 245 sợi dây bẫy, số tiền thu nộp ngân sách 109,946 triệu đồng.

Diện tích rừng trồng đã khai thác và trồng mới khoảng 2.200 ha, sản lượng 102.000 m3, chủ yếu là gỗ keo các loại. Trình độ ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất được nâng cao, nhờ vậy năng suất, sản lượng ngày càng tăng, giá trị thu nhập tăng lên bình quân đạt 50 triệu đồng/ha. Tổ chức kiểm tra các tổ chức, cá nhân, cơ sở sản xuất, kinh doanh và lưu thông giống cây trồng lâm nghiệp trên địa bàn huyện, nhằm đưa hoạt động sản xuất kinh doanh giống cây lâm nghiệp đi vào nề nếp.

Tăng cường công tác phòng cháy chữa cháy rừng trong mùa khô, chú trọng việc tu sửa các đường băng cản lửa, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, tuyên truyền công tác quản lý bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng; thực hiện chế độ tuần tra, kiểm tra giám sát trực PCCC rừng đối với các chủ rừng, chính quyền cấp xã ngay từ đầu mùa khô, nhằm hạn chế thiệt hại do cháy rừng gây ra.

Thực hiện Chỉ thị 65 của UBND tỉnh về tăng cường thực hiện các biện pháp quản lý rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh: Trong năm 2018, tổng số vụ vi phạm là 34 vụ/28,979 ha rừng. Trong đó: 07 vụ phá rừng (01 vụ chuyển Công an huyện khởi tố với diện tích 1,35ha tại Lộc Thủy; 02 vụ Đoàn kiểm tra liên ngành phối hợp Công an huyện điều tra đối tượng với 1,4 ha tại Lăng Cô, Xuân Lộc; 01 vụ với 0,675 ha đã tìm ra đối tượng tại Lăng Cô; 03 vụ chưa tìm ra đối tượng 0,79 ha của Công ty lâm nghiệp Nam Hòa); 27 vụ lấn, chiếm đất lâm nghiệp (diện tích 23,804 ha).

Thủy sản: Diện tích nuôi trồng 1.305 ha, đạt 100% so kế hoạch và cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng thủy sản khoảng 2.884 tấn, đạt 102,6% kế hoạch, bằng 104,3% so với cùng kỳ, trong đó: tôm 941 tấn, cua 150 tấn, cá các loại 1.273 tấn, nhuyễn thể 520 tấn. Nhờ thực hiện đa dạng hoá các đối tượng nuôi, nên lĩnh vực nuôi trồng đã vượt qua khó khăn, kiểm soát tốt dịch bệnh và đem lại thu nhập cho người dân (vụ nuôi 2018, có 1.760/2.727 hộ nuôi thủy sản có lãi chiếm 64,5%, bình quân lãi từ 10 - 30 triệu đồng/ha/năm).

Đến nay, đã hoàn thành việc sắp xếp và quản lý nuôi cá lồng trên đầm phá, quy hoạch 23 ha/24vùng nuôi, với 2.816 lồng/07 xã, thị trấn, số hộ nuôi 893 hộ. Về cơ bản đã sắp xếp xong nghề nuôi cá lồng trên đầm phá, trong đó định vị mặt nước cho từng hộ và phê duyệt danh sách đủ điều kiện cho 893 hộ nuôi, với 2.816 lồng; lồng nuôi được đặt thẳng hàng, luồng lạch thông thoáng, góp phần cải thiện môi trường nước, hạn chế dịch bệnh, phát triển nghề nuôi cá lồng theo hướng bền vững.  

Quản lý nuôi tôm chân trắng: Đã thành lập Đoàn liên ngành tổ chức kiểm tra tình hình vi phạm trong nuôi trồng thủy sản ở 13/13 xã, thị trấn. Qua kiểm tra đã phát hiện 17 trường hợp vi phạm; trong đó: 11 trường hợp với diện tích 3,1 ha nuôi tôm chân trắng vi phạm Quyết định 72 (Lộc Trì 02 hộ/01 ha, Lăng Cô 09 hộ/2,1 ha) và có 06 trường hợp đã xây dựng ao hồ (năm 2012) vi phạm về sử dụng đất đai (Lộc Thủy 2 ha/04 hộ, Lộc Vĩnh 1,3 ha/02 hộ), UBND các xã đã xử phạt hành chính các trường hợp nói trên; riêng thị trấn Lăng Cô có 01 ha/2ao người dân đã tự nguyện san hồ trả lại hiện trạng ban đầu ở khu vực Loan Lý. Hiện nay Đoàn liên ngành 571 huyện đang phối hợp với UBND các xã Vinh Mỹ và xã Lộc Vĩnh kiểm tra, đôn đốc xử lý các trường hợp khắc phục trả lại hiện trạng ban đầu (trong đó Vinh Mỹ đang thực trồng lại rừng trên diện tích rừng bị phá).

2. Tình hình đầu tư phát triển, xây dựng nông thôn mới.

Tổng vốn đầu tư phát triển khoảng 6.470 tỷ đồng, đạt 92,4% kế hoạch, bằng 99,5% so cùng kỳ; trong đó, xây dựng cơ bản 4.480 tỷ đồng.

a) Quản lý đầu tư xây dựng: Công tác đầu tư xây dựng được tập trung chỉ đạo thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công và Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020, nên đã chủ động trong công tác quản lý, thanh toán và đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho các dự án có trong kế hoạch. Nguồn vốn xây dựng cơ bản được ưu tiên tập trung đầu tư cho các công trình và nhóm công trình trọng điểm, tăng cường cơ sở vật chất trường học để xây dựng trường đạt chuẩn, xây dựng Nông thôn mới và chỉnh trang đô thị,…

Nguồn vốn ngân sách huyện: Năm 2018, bố trí 47 tỷ đồng, đã phân bổ 31,47 tỷ đồng, để bố trí đầu tư 117 công trình; gồm: 89 công trình chuyển tiếp, 28 công trình mới. Đến nay, trong số 89 công trình chuyển tiếp có 28 công trình đã phê duyệt quyết toán vốn đầu tư, 26 công trình đã nghiệm thu hoàn thành, 35 công trình đang thi công; 28 công trình xây dựng mới đang thi công. Tổng vốn đầu tư thanh toán đến tháng 11/2018, đạt 92,4% kế hoạch.

Nguồn vốn Chương trình 30a: Năm 2018, bố trí 6,5 tỷ đồng, được phân bổ đầu tư cho 07 công trình, hiện nay các công trình đang thi công. Tổng vốn đầu tư thanh toán đến tháng 11/2018 đạt 76,5% kế hoạch.

Nguồn vốn Chương trình 135: Năm 2018, bố trí 0,66 tỷ đồng, được phân bổ đầu tư cho 03 công trình; hiện nay, các công trình đang thi công. Tổng vốn đầu tư thanh toán đến tháng 11/2018 đạt 77,3% kế hoạch.

Công tác quyết toán vốn đầu tư: Từ đầu năm đến nay, đã phê duyệt quyết toán vốn đầu tư 41 công trình, tổng số tiền loại khỏi thanh toán qua quá trình thẩm tra quyết toán là 43,72 triệu đồng; hiện nay, có 05 công trình đã nộp hồ sơ quyết toán vốn đầu tư (đang trong thời hạn thẩm tra quyết toán).

Công nợ xây dựng cơ bản: Đến hết năm 2018, tổng công nợ khoảng 22,045 tỷ đồng; trong đó, ngân sách tỉnh 6,028 tỷ đồng, ngân sách huyện 12,637 tỷ đồng, ngân sách cấp xã 3,380 tỷ đồng. Dự kiến đến cuối năm 2018 sẽ thanh toán từ nguồn thu vượt kế hoạch đấu giá đất và bố trí trả nợ trong năm 2019.

b) Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Trong năm 2018, thực hiện giải phóng mặt bằng 15 dự án, trong đó, có 11 dự án chuyển tiếp và 04 dự án mới (Dự án khu phức hợp nghỉ dưỡng Đăng Kim Long, khu công nghiệp và phi thuế quan Sài Gòn – Chân Mây giai đoạn 4, Đường nối từ Quốc lộ 1A vào vườn quốc gia Bạch Mã, Đường dây 500 kV Quảng Trạch – Dốc Sỏi). Tổng diện tích đất thu hồi là 609,44 ha; hộ gia đình, cá nhân, tổ chức bị ảnh hưởng là 3.230 trường hợp; tổng giá trị Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được phê duyệt là 64.120 triệu đồng; có 121 trường hợp phải bố trí tái định cư.

Về cơ bản, đã hoàn thành phần lớn khối lượng và đáp ứng yêu cầu tiến độ đề ra, tập trung tháo gỡ các vướng mắc do bổ sung, phát sinh khối lượng, giải quyết thắc mắc để vận động các hộ dân nhận tiền và bàn giao mặt bằng đúng tiến độ. Đối với các trường hợp còn vướng mắc không thuộc thẩm quyền giải quyết, UBND huyện đã có văn bản xin ý kiến giải quyết của UBND tỉnh, Hội đồng Tư vấn tỉnh để có cơ sở thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho người dân theo quy định.

c) Hoạt động của các thành phần kinh tế: Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh duy trì ổn định và có mức tăng trưởng cao trong lĩnh vực dịch vụ, du lịch. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện các giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trên địa bàn, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư phát triển (có hơn 195 doanh nghiệp tư nhân, với hơn 3.078 lao động, tỷ trọng đóng góp vào ngân sách hơn 30%). Trong năm đã cấp 293 hộ đăng ký kinh doanh mới, 62 hộ thay đổi, với tổng số vốn đăng ký khoảng 87,028 tỷ đồng, tăng 43,69% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017; lũy kế đến nay, số hộ đăng ký kinh doanh là 3.573 hộ, với tổng số vốn đăng ký là 558,778 tỷ đồng.

Kinh tế hợp tác được củng cố và duy trì, một số Hợp tác xã đã chuyển sang hoạt động mạnh ở lĩnh vực dịch vụ, nhờ đó, ngày càng phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, số HTX làm ăn hiệu quả chiếm tỷ lệ thấp, một phần do thiếu vốn sản xuất, cũng như năng lực nắm bắt thị trường còn hạn chế; phương án sản xuất kinh doanh thiếu hiệu quả. Đối với HTX hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, qua phân loại có 09 đơn vị xếp loại khá, 09 đơn vị xếp loại trung bình và 10 đơn vị xếp loại yếu.

d) Chương trình xây dựng nông thôn mới từng bước phát huy hiệu quả: Nhằm hoàn thiện các tiêu chí nông thôn mới, trong năm đã phân bổ 10,27 tỷ đồng, đầu tư 09 công trình (04 công trình chuyển tiếp, 05 công trình xây dựng mới), hiện nay, các công trình đang thi công. Tổng vốn đầu tư thanh toán đến tháng 11/2018 đạt 67,8% kế hoạch.

Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” UBND huyện đã chỉ đạo thực hiện đầu tư xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi theo cơ chế đặc thù, đã thực sự lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư và đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng trong việc hoàn thành tiêu chí nông thôn mới. Kế hoạch năm 2017 - 2019, đăng ký đầu tư xây dựng 32,47 km đường giao thông, với tổng giá trị 22,6 tỷ đồng (trong đó: Ngân sách huyện hỗ trợ 6,56 tỷ đồng từ nguồn vay ứng trước xi măng với nhà máy, kế hoạch trả nợ trong 3 năm 2017-2019 với 4.846 tấn xi măng, hỗ trợ vật liệu (cát, sạn) khoảng 1,8 tỷ đồng; ngân sách xã và huy động khác 14,2 tỷ đồng); đến nay, các xã thực hiện hoàn thành 32,47 km đường giao thông và đang lập hồ sơ quyết toán.

Đến cuối năm 2018, có 05 xã đạt chuẩn NTM (Lộc Bổn, Lộc An, Lộc Điền, Vinh HưngVinh Hiền); 02 xã đạt 19 tiêu chí đang làm hồ sơ đề nghị công nhận xã đạt chuẩn NTM (Lộc Trì, Vinh Mỹ); 02 xã đạt 16 tiêu chí (Lộc Hòa, Vinh Hải); 01 xã đạt 15 tiêu chí (Lộc Bình); 02 xã đạt 14 tiêu chí (Xuân Lộc, Vinh Giang); 01 xã đạt 11 tiêu chí (Lộc Tiến); 01 xã đạt 10 tiêu chí (Lộc Vĩnh); 01 xã đạt 09 tiêu chí (Lộc Thủy).

3. Thu chi ngân sách:

Tập trung chỉ đạo quản lý, điều hành thu ngân sách ngay từ đầu năm, đặc biệt đã tập trung bám sát dự toán, khai thác triệt để các nguồn thu, chống thất thu, đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế. Tổng thu ngân sách nhà nước tại địa phương ước đạt 169,420 tỷ đồng, đạt 114% kế hoạch; trong đó, thu cân đối ngân sách 160,070 tỷ đồng, đạt 115,0% kế hoạch, bằng 96% so với cùng kỳ. Một số khoản thu đạt cao như: thuế các doanh nghiệp tỉnh quản lý, thuế thu nhập cá nhân tỉnh thu, lệ phí trước bạ, thu cấp quyền sử dụng đất…

Tổng chi ngân sách nhà nước trong năm là 614,117 tỷ đồng, đạt 124% kế hoạch, bằng 131% so với cùng kỳ; trong đó, chi ngân sách huyện 517,594 tỷ đồng, đạt 124% kế hoạch, bằng 112,0% so với cùng kỳ.

4. Quản lý tài nguyên và môi trường, trật tự xây dựng:

a) Công tác quản lý tài nguyên, môi trường: Trong năm, đã giao đất 70 trường hợp, với diện tích 15 ha; chuyển mục đích sử dụng đất 14 trường hợp, với diện tích 0,2 ha; cấp đổi 1.347 giấy, lũy kế đã cấp đổi được 24.149 giấy; cấp mới 525 giấy, với diện tích 79,27 ha, lũy kế đến nay, toàn huyện đã cấp 106.412 giấy, với tổng diện tích 21.512,05 ha, đạt 98,55% diện tích cần cấp, trong đó:

- Đất ở: Đất ở đô thị, đã cấp 86 giấy với diện tích 4,3 ha, lũy kế đến nay, toàn huyện đã cấp 4.655 giấy với diện tích 316,24 ha, đạt 97,2% so với diện tích cần cấp. Đất ở nông thôn, đã cấp 236 giấy với diện tích 14,58 ha, lũy kế đến nay, đã cấp 28.669 giấy với diện tích 2.868,51 ha, đạt 97,99%  so với diện tích cần cấp.

- Đất nông nghiệp: Đất sản xuất nông nghiệp, đã cấp 175 giấy với diện tích 39,34 ha, lũy kế đến nay, đã cấp 60.004 giấy với diện tích 6.865,59 ha, đạt 98,77%  so với diện tích cần cấp. Đất nuôi trồng thủy sản, đã cấp 13 giấy với diện tích 6,89 ha, lũy kế đến nay, đã cấp 2.730 giấy với diện tích 975,53 ha, đạt 98,74% so với diện tích cần cấp. Đất lâm nghiệp, đã cấp 13 giấy với diện tích 14,08 ha, lũy kế đến nay, đã cấp 9.020 giấy với diện tích 10.363,71 ha, đạt 98,57% so với diện tích cần cấp.

- Đất tín ngưỡng: Trong năm đã cấp 02 giấy với diện tích 0,08 ha, lũy kế đến nay, toàn huyện đã cấp được 1.334 giấy, với diện tích 122,47 ha đạt 98,88% so với diện tích cần cấp.

Về môi trường, tiếp tục tuyên truyền, phổ biến nhằm thực hiện có hiệu quả Đề án thu gom rác thải, không để xảy ra tình trạng rác thải tồn đọng tại các khu vực tập trung dân cư. Trong năm, đã thu gom và vận chuyển về nơi xử lý rác, với khối lượng 8.559,4 tấn; tỷ lệ số thôn, tổ dân phố được thu gom rác thải đạt 93%; số hộ tham gia dịch vụ thu gom rác thải sinh hoạt là 18.710 hộ, đạt tỷ lệ 53,71%.

b) Công tác quản lý trật tự xây dựng: Trong năm, đã phát hiện 42 trường hợp xây dựng vi phạm, giảm 61% so với cùng kỳ năm trước (năm 2017 là 109 trường hợp); đã lập Biên bản vi phạm hành chính 39 trường hợp vi phạm (chưa lập hồ sơ xử lý 03 trường hợp), ban hành quyết định đình chỉ 03 trường hợp, ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính 27 trường hợp, ban hành quyết định cưỡng chế 06 trường hợp; các trường hợp còn lại đang hoàn thiện hồ sơ xử lý theo quy định và buộc tháo dỡ công trình.

5. Lĩnh vực văn hóa, xã hội:

a) Y tế, dân số, gia đình, trẻ em:

Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm triển khai có hiệu quả, tình hình vi phạm của các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm đã giảm, ý thức chấp hành các quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm được nâng lên rõ rệt.

Công tác phòng chống dịch bệnh được tích cực triển khai; trong năm đã phát hiện 111 ca bệnh sốt xuất huyết, 30 ca bệnh thủy đậu, 30 ca tay chân miệng. Đã chỉ đạo ngành y tế tập trung xử lý, không để lây lan ra diện rộng; đồng thời, tuyên truyền, hướng dẫn người bệnh và gia đình bệnh nhân cách xử lí, phòng ngừa, vệ sinh cá nhân để tránh lây lan cho người thân và cộng đồng. Đã phối hợp với Bệnh viện Đa khoa Quốc tế VINMEC Đà Nẵng tổ chức khám chữa bệnh nhân đạo và cấp phát thuốc miễn phí cho 175 người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn

Chương trình Tiêm chủng mở rộng đã triển khai thường xuyên (có 2.840 trẻ được tiêm phòng đầy đủ 7 loại vắc-xin, 2.830 phụ nữ có thai tiêm uốn ván sơ sinh). Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và đội ngũ y bác sĩ không ngừng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ban đầu của nhân dân; số lượt người khám chữa bệnh trong năm là 230.846 lượt người, điều trị nội trú 8.234 lượt người.

Tiếp tục thực hiện công tác truyền thông, vận động lồng ghép cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản - KHHGĐ trên địa bàn 18 xã, thị trấn nhằm phấn đấu giảm tỷ lệ sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên. Tiếp tục theo dõi, kiểm tra và giám sát cân trẻ dưới 2 tuổi hàng tháng; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm còn 7,5%.

Triển khai các chương trình “ Hành trình cuộc sống”, tặng xe đạp cho 15 em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và học giỏi, chương trình “cứu trẻ em bệnh tim bẩm sinh” năm 2018. Phối hợp với Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh và Văn phòng dự án Zhishan Foundation Taiwan tổ chức trao học bổng năm 2018 cho 190 lượt em học sinh nghèo vượt khó, với tổng số tiền 143.200.000 đồng (Đợt I, 95 em với số tiền 65 triệu đồng; đợt II, 95 em với số tiền là 78,2 triệu đồng). Tổ chức điểm Tháng hành động trẻ em với chủ đề “Vì cuộc sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em trong thế giới công nghệ số” tại Trường Tiểu học An Lương Đông, xã Lộc Điền. Tổ chức “Đêm hội trăng rằm” năm 2018 và trao tặng hơn 300 suất quà, 43 suất học bổng, 20 xe đạp, 20 ba lô cho các em học sinh người đồng bào dân tộc thiểu số và trẻ em ở xã Xuân Lộc có hoàn cảnh khó khăn biết vươn lên trong học tập...

b) Giáo dục và Đào tạo:

Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy và học ở các cấp, thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực của học sinh; đầu tư mở rộng cơ sở vật chất các trường học, trang thiết bị, nhằm phục vụ tốt cho công tác dạy và học. Tập trung chỉ đạo các trường cận chuẩn hoàn thiện các tiêu chí, tiêu chuẩn xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, đảm bảo lộ trình kế hoạch đã xây dựng. Đã tiến hành kiểm tra kỹ thuật trường đạt chuẩn quốc gia đối với các trường đề nghị kiểm tra công nhận mới và đề nghị công nhận lại. Đến nay, trên toàn huyện có 28 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt 38,35%. Ngành giáo dục đã tổ chức và tham gia nhiều hội thi cho học sinh đạt nhiều thành tích cao. Hoàn thành năm học 2017-2018, với kết quả:

- Bậc học mầm non: 100% trẻ được bán trú và khám sức khỏe định kỳ, 94,32% trẻ phát triển bình thường, đạt chỉ tiêu đề ra. Trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân chiếm tỷ lệ 2,06%; trẻ suy dinh dưỡng thấp còi chiếm tỷ lệ 1,95%; trẻ thừa cân, béo phì chiếm tỷ lệ 1,65%, đạt chỉ tiêu đề ra. 100% trường mầm non thực hiện chương trình giáo dục mầm non của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

- Bậc tiểu học: 100% học sinh lớp 5 hoàn thành chương trình tiểu học (2.400 em), học sinh hoàn thành chương trình lớp học 11.289/11.422 em chiếm tỷ lệ 98,8%, chưa hoàn thành chương trình lớp học 133 em, chiếm tỷ lệ 1,2%. Số học sinh này sẽ được rèn luyện trong hè để hoàn thành chương trình lớp học;

- Bậc THCS: Về hạnh kiểm đạt loại tốt 7.637/8.647, tỷ lệ 88,31%, không có hạnh kiểm yếu, đạt chỉ tiêu đề ra. Về học lực loại giỏi 1.969/8.647, tỷ lệ 22,78%; loại khá 3.507/8.647, tỷ lệ 40,56%; loại trung bình 2.979/8.647, tỷ lệ 34,45%; loại yếu 188/8.647, tỷ lệ 2,17%; loại kém 4/8.647 em, tỷ lệ 0,046%. Xét tốt nghiệp THCS có 2.033/2.035 học sinh tốt nghiệp, đạt tỷ lệ 99,90%, tăng 0,05% so với năm học trước.

Thực hiện công tác phổ cập giáo dục - xóa mù chữ đạt chỉ tiêu đề ra: Xóa mù chữ có 100% xã, thị trấn đạt mức độ 2, 18/18 xã, thị trấn đạt chuẩn phổ cập cho trẻ mầm non 5 tuổi; 18/18 xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; 18/18 xã đạt chuẩn phổ cập THCS mức độ 2; 7/18 xã đạt chuẩn phổ cập THCS mức độ 3.

Công tác khuyến học, khuyến tài tiếp tục được quan tâm thực hiện, trong năm 2018, Hội Khuyến học huyện đã tổ chức phát 262 suất học bổng cho học sinh nghèo hiếu học với tổng trị giá 161,5 triệu đồng; tổ chức phát thưởng cho học sinh đạt giải tại các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia và giáo viên bồi dưỡng với 245 suất, tổng trị giá 152 triệu đồng.

c) Văn hóa thông tin, thể dục thể thao:

Trong các dịp lễ, tết, các ngành, địa phương đã tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao phục vụ bà con nhân dân. Nhìn chung, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao diễn ra sôi nổi, vui tươi và lành mạnh. Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, văn hóa, nghệ thuật; trong đó, tập trung đợt tuyên truyền cao điểm trong toàn huyện nhân dịp các ngày lễ, kỷ niệm lớn của quê hương, đất nước, thông qua các hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức cổ động trực quan.

Tổ chức kiểm tra, xét duyệt các đơn vị đạt chuẩn văn hóa giai đoạn 2013 – 2018 và đã công nhận cho 51 cơ quan, đơn vị, thôn, tổ dân phố, trong đó có 49 cơ quan, thôn, tổ dân phố đạt chuẩn văn hóa, 02 xã đạt chuẩn văn hóa Nông thôn mới là xã Vinh Hưng và Lộc Bổn.

Phong trào thể dục, thể thao rèn luyện thân thể ngày càng được chú trọng, góp phần nâng cao tinh thần, sức khỏe cho nhân dân. Đại hội TDTT huyện được triển khai theo đúng kế hoạch đã đề ra, thu hút nhiều thành phần và đối tượng tham gia, cổ vũ nhiệt tình. Đã tuyển chọn đoàn vận động viên tham gia thi đấu tại Đại hội tỉnh năm 2018 và đạt nhiều thành tích cao

d) Lao động, việc làm, người có công và an sinh xã hội:

Công tác đào tạo nghề tiếp tục được quan tâm, đã gắn đào tạo nghề với nhu cầu thị trường. Trong năm, đã đào tạo mới 1.625 lao động, đạt 100% kế hoạch, nâng tổng số lao động qua đào tạo trên 45.870 người (đạt tỷ lệ 57%), với nhiều ngành nghề phù hợp, đáp ứng nhu cầu thị trường, tạo cơ hội cho người lao động kiếm được việc làm sau khi học nghề; giải quyết việc làm mới khoảng 2.200 người, đạt 100% kế hoạch. Đã tổ chức tư vấn xuất khẩu lao động tại 18 xã, thị trấn; đến nay có 132 lao động xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và khoảng 70 lao động đang tham gia các lớp đào tạo tiếng và kỹ năng cơ bản để đi làm việc ở nước ngoài. Trong năm, đã thực hiện chính sách đào tạo nghề dưới 3 tháng cho 450 lao động bị ảnh hưởng sự cố môi trường biển và chi trả gần 4,0 tỷ đồng học phí cho sinh viên các hệ đại học, cao đẳng, trung cấp của 12 xã, thị trấn bị ảnh hưởng môi trường biển.

Thực hiện các chế độ chính sách và trao quà cho 11.017 người dân thuộc hộ nghèo, đối tượng hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội và các gia đình có hoàn cảnh khó khăn khác, với tổng số tiền 3,324 tỷ đồng. Thực hiện chi trả trợ cấp thường xuyên cho 8.300 đối tượng được hưởng trợ cấp hàng tháng, với kinh phí trên 3,0 tỷ đồng/tháng… Thực hiện chế độ chính sách và trao 3.756 suất quà của Chủ tịch nước, tỉnh, huyện cho Người có công với tổng số tiền 0,763 tỷ đồng. Tiếp nhận, giải quyết tốt các chế độ chính sách cho 321 hồ sơ Người có công và 1.810 hồ sơ trợ cấp bảo trợ xã hội; trong năm 2018, toàn huyện có 13 mẹ được truy tặng danh hiệu mẹ Việt Nam Anh Hùng, nâng tổng số mẹ VNAH toàn huyện là 278 mẹ, hiện nay còn sống 10 mẹ VNAH.

Liên quan sự cố cá lồng bị ảnh hưởng do thi công dự án Mở rộng hầm đường bộ Hải Vân, UBND huyện đã tổ chức thống kê, thẩm định và phê duyệt Phương án hỗ trợ do ngừng nuôi 01 vụ nuôi cá cho các đối tượng bị ảnh hưởng GPMB ở thị trấn Lăng Cô (3 đợt) gồm 161 hộ, với giá trị hỗ trợ là 7.685.087.000 đồng; đến nay đã tổ chức chi trả xong.

Thực hiện Quyết định số 66/QĐ-UBND ngày 11/01/2018 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về việc hỗ trợ kinh phí khắc phục thiệt hại về nông nghiệp do cơn bão số 12 và mưa lũ trong năm 2017, UBND huyện đã phê duyệt danh sách đối tượng và kinh phí hỗ trợ khắc phục thiệt hại gồm 1.650 đối tượng, với tổng kinh phí là 1.599.174.000 đồng.

6. Cải cách hành chính, khoa học công nghệ:

a) Công tác cải cách hành chính được tập trung chỉ đạo; đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương xây dựng kế hoạch và định kỳ đánh giá việc thực hiện kế hoạch cải cách hành chính trong lĩnh vực được giao và địa bàn quản lý; tiếp tục áp dụng hiệu quả các phần mềm điện tử trong công tác chỉ đạo điều hành; đặc biệt là liên thông xử lý văn bản điện tử, hồ sơ thủ tục hành chính; tiếp tục duy trì hệ thống họp trực tuyến huyện - xã; hoàn thành việc chuyển đổi từ phiên bản ISO 9001:2008 sang ISO 9001:2015. Đã phê duyệt và triển khai hiệu quả Đề án xây dựng Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả hiện đại các xã, thị trấn; đến nay, đã khai trương, đưa vào hoạt động chính thức Bộ phận TN&TKQ hiện đại cho 16/18 xã, thị trấn, 02 xã còn lại thực hiện năm 2019 (xã Lộc Thủy và Lộc Tiến).

Tổ chức thành công Hội thi cải cách hành chính trên địa bàn huyện năm 2018, theo đó, có 20 đội dự thi, 06 đội đạt giải (01 giải nhất, 01 giải nhì, 01 giải ba và 03 giải khuyến khích). Huyện cũng đã tuyển chọn, thành lập đội tham dự Hội thi cải cách hành chính ở tỉnh, kết quả đạt 01 giải ba và 01 giải khuyến khích.

Về giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông, năm 2018, Trung tâm Hành chính công huyện tiếp nhận 9.188 hồ sơ, trong đó: nhận trực tiếp tại Trung tâm 7.951 hồ sơ, liên thông từ Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả các xã, thị trấn 1.237 hồ sơ. Số hồ sơ đã giải quyết 8.188 hồ sơ (đúng hẹn 7.788 hồ sơ, chiếm tỷ lệ 95,1%; trễ hẹn 400 hồ sơ, chiếm 4,9%); số lượng hồ sơ đang giải quyết 1.000 hồ sơ (trong hẹn 967 hồ sơ, chiếm 96,7%; trễ hẹn 33 hồ sơ, chiếm 3,3%).

b) Khoa học và công nghệ: Tiếp tục triển khai thực hiện các đề tài, dự án nằm trong danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ năm 2018, phối hợp thực hiện Đề tài KH&CN cấp tỉnh “Nghiên cứu, đánh giá và đề xuất công nghệ nuôi hàu “thân thiện môi trường” thay việc dùng vỏ lốp xe cũ tại đầm Lập An, thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế”. Phê duyệt và đưa vào thực hiện dự án khoa học và công nghệ “Ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng mô hình trồng hoa lan Mokara trong nhà lưới theo hướng công nghệ cao tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế” với quy mô 200 m2; đào tạo tập huấn cho 05 cán bộ và 50 nông dân nắm bắt kỹ thuật trồng và chăm sóc cây hoa lan Mokara để nhân rộng mô hình.

Thực hiện mô hình cánh đồng mẫu trên giống lúa KH1, LDA1 diện tích 320 ha ở 09 HTX, kết quả đánh giá năng suất bình quân đạt 66 tạ/ha, cao hơn 05 tạ/ha so với năng suất bình quân toàn huyện; chỉ đạo hỗ trợ các mô hình khuyến nông đạt hiệu quả tốt, hiện nay các cây, con giống đang sinh trưởng, phát triển tốt và tiếp tục theo dõi, nhân rộng trong thời gian tới.

Đã tổ chức Đoàn kiểm tra tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng trong kinh doanh xăng dầu; kiểm tra nhãn hàng hóa, điều kiện bảo quản hàng hóa, định lượng của hàng đóng gói sẵn, cân đối chứng, tình hình quản lý và sử dụng các phương tiện đo ở các chợ và các cơ sở kinh doanh vàng trên địa bàn huyện. Qua kiểm tra, đã kịp thời phát hiện, thu giữ và tiêu hủy các sản phẩm hàng hóa kém chất lượng, hết hạn sử dụng, sản phẩm không có nhãn mác, không rõ nguồn gốc, xuất xứ.

7. Quốc phòng, an ninh và công tác nội chính:

a) Công tác quốc phòng, an ninh: Đã tổ chức 03 lớp tập huấn cho cán bộ cơ quan Ban chỉ huy quân sự huyện, Ban chỉ huy quân sự các xã, thị trấn và các cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện. Quá trình tập huấn bảo đảm nội dung, chương trình, thời gian và quân số, bảo đảm an toàn tuyệt đối về người và vũ khí trang bị.

Tập trung chỉ đạo các đơn vị tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ huyện Phú Lộc và diễn tập chiến đấu phòng thủ xã, thị trấn năm 2018 cho 04 xã, thị trấn (gồm: Lộc Hòa, Lộc Điền, thị trấn Phú Lộc và thị trấn Lăng Cô) theo đúng kế hoạch; đảm bảo an toàn về người, vũ khí và lực lượng tham gia diễn tập.

Thực hiện tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2018 đạt kết quả tốt; đã giao 165 thanh niên, đạt 100% chỉ tiêu đề ra. Đồng thời đã tổ chức đón tiếp, gặp mặt, tặng quà cho 158 quân nhân xuất ngũ năm 2018 và đăng ký, quản lý quân nhân dự bị.

b) Trật tự an toàn xã hội: Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 27 vụ, giảm 13 vụ so với cùng kỳ năm trước, gồm: 01 vụ cướp tài sản, 04 vụ cố ý gây thương tích, 14 vụ trộm cắp tài sản, 04 vụ đánh bạc, 01 vụ hủy hoại tài sản, 01 vụ xâm phạm mồ mã, 01 vụ hiếp dâm và 01 vụ giao cấu với người dưới 16 tuổi. Về tội phạm ma túy, đã phát hiện và khởi tố 10 vụ, tăng 05 vụ so với cùng kỳ năm trước (04 vụ tàng trữ, 04 vụ mua bán và 02 vụ vận chuyển trái phép chất ma túy). Tội phạm kinh tế xảy ra 01 vụ về vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng tại xã Lộc Thủy, tăng 01 vụ so với cùng kỳ năm trước. Tội phạm về môi trường, công nghệ cao không xảy ra.

c) An toàn giao thông: Trong năm đã xảy ra 66 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 30 người, bị thương 55 người; so với cùng kỳ năm trước giảm 01 vụ; giảm 01 người chết; giảm 09 người bị thương.

Tai nạn giao thông đường sắt xảy ra 02 vụ, chết 02 người, bị thương 01 người, giảm 01 vụ, chết giảm 02 người và bị thương giảm 02 người so với cùng kỳ năm trước. Tai nạn giao thông đường thuỷ không xảy ra. Tai nạn khác xảy ra 22 vụ (02 vụ điện giật, chết 02 người; 07 vụ tự tử, chết 07 người; đuối nước 13 vụ, chết 14 người).

d) Công tác thanh tra: Đã tiến hành 04 cuộc thanh tra theo kế hoạch thanh tra năm 2018 (đạt 100% kế hoạch) và 02 cuộc thanh tra của năm 2017 chuyển sang, kết quả thực hiện cụ thể như sau:

- Theo kế hoạch Thanh tra 2018, đã kết luận 04/04 cuộc thanh tra: Cuộc thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật trong quản lý, sử dụng ngân sách Nhà nước và các khoản đóng góp tại trường Tiểu học Nước Ngọt 2, xã Lộc Thủy. Hai cuộc thanh tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND xã về việc quản lý, sử dụng ngân sách, xây dựng cơ bản; công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng tại UBND xã Lộc Sơn và UBND xã Lộc Hòa. Cuộc thanh tra việc thực hiện nghĩa vụ Thuế đối với các đơn vị: DNTN Phước Dũng, xã Lộc Thủy; DNTN Hoa Mạnh, thị trấn Lăng Cô; DNTN Hoàng Minh Phụng, xã Lộc Tiến; DNTN Hoàng Lộc, xã Lộc Sơn.

- Các cuộc thanh tra năm 2017 chuyển sang: Ban hành Kết luận thanh tra nội dung tố cáo phá hoại rừng thông trên địa bàn xã Lộc Bổn và việc lập danh sách giả để nhận tiền bồi thường Dự án hồ Tả Trạch đối với Hợp tác xã An Nong 1, xã Lộc Bổn. Đang tổng hợp, dự thảo kết luận cuộc thanh tra theo Quyết định số 1675/QĐ-TTg ngày 29/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường xử lý vi phạm về quản lý, sử dụng đất đai giai đoạn đến năm 2020 đối với UBND xã Lộc Điền và Xuân Lộc.

Qua thanh tra, đã phát hiện sai phạm kinh tế với tổng số tiền 60.156.891 đồng, đã ban hành các quyết định thu hồi với tổng số tiền 60.156.891 đồng, đã thu hồi số tiền 32.380.451 đồng nộp vào Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, qua việc đôn đốc thực hiện các quyết định thu hồi năm 2017, đã thu hồi số tiền 60.000.000 đồng của DNTN Bảo Uyên, xã Lộc Sơn, huyện Phú Lộc. Tổng số tiền thu hồi nộp vào ngân sách Nhà nước đến nay là 92.380.451 đồng.

đ) Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại: Tính đến nay, UBND huyện đã tiến hành 60 cuộc tiếp công dân; trong đó: có 36 cuộc tiếp công dân thường xuyên tại Ban Tiếp công dân huyện với 36 lượt ý kiến; 24 cuộc tiếp công dân định kỳ tại Ban Tiếp công dân huyện và UBND các xã, thị trấn, với 19 lượt ý kiến.

Các ý kiến của công dân chủ yếu liên quan đến sự cố môi trường biển tại địa bàn các xã, thị trấn trên địa bàn huyện; kiến nghị, khiếu nại, tố cáo liên quan đến chế độ hỗ trợ cá chết và 01 vụ nuôi cá lồng năm 2018 cho các hộ gia đình, cá nhân ảnh hưởng GPMB thi công dự án Mở rộng hầm đường bộ Hải Vân, thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc. Qua công tác tiếp công dân, lãnh đạo UBND huyện và các phòng, ban chuyên môn cấp huyện, UBND cấp xã, thị trấn đã trực tiếp trả lời, giải thích, hướng dẫn rõ một số ý kiến của công dân; đồng thời tiếp thu và ghi nhận những ý kiến kiến nghị, phản ánh chưa được trả lời trực tiếp tại buổi tiếp công dân để chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành có liên quan kiểm tra, xác minh và tham mưu giải quyết, trả lời cụ thể cho công dân đảm bảo theo quy định pháp luật.

Về đơn thư, đã tiếp nhận 344 đơn, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: Đơn đủ điều kiện xử lý: 325 đơn, tăng 33,7% so với cùng kỳ; đơn không đủ điều kiện xử lý: 19 đơn, giảm 86,8%). Trong 325 đơn đủ điều kiện xử lý, có 192 đơn thuộc thẩm quyền (trong đó: khiếu nại: 06 đơn; tố cáo: 09 đơn; tranh chấp: 06 đơn; kiến nghị, phản ánh: 171 đơn) và 133 đơn không thuộc thẩm quyền (khiếu nại: 04 đơn; tố cáo: 07 đơn; tranh chấp: 25 đơn; kiến nghị, phản ánh: 97 đơn).

Kết quả giải quyết đơn thuộc thẩm quyền: Đã giải quyết: 165/192 đơn, đạt 86,0% (khiếu nại: 5/6 đơn, đạt 83,3%; tố cáo: 8/9 đơn, đạt 88,8 %; tranh chấp: 3/6 đơn, đạt 50%; kiến nghị, phản ánh: 149/171 đơn, đạt 87,1%); còn lại 27 đơn (khiếu nại: 01 đơn; tố cáo: 01; tranh chấp: 03 đơn; kiến nghị, phản ánh: 22 đơn), UBND huyện đang chỉ đạo các cơ quan khẩn trương giải quyết.

II. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ.

1. Công tác quản lý trật tự xây dựng, tài nguyên và môi trường còn nhiều hạn chế; việc kiểm tra, xử lý các trường hợp lấn chiếm đất đai, khai thác trái phép cát, đất làm vật liệu san lấp, đặc biệt trên địa bàn Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô còn nhiều khó khăn.

2. Quỹ đất phục vụ quy hoạch đấu giá giao quyền sử dụng đất ngày càng giảm dần, nhu cầu nguồn vốn đầu tư hạ tầng và giải phóng mặt bằng khá lớn, trong khi nguồn vốn ngân sách huyện hàng năm còn hạn chế, nên khó khăn về nguồn vốn bố trí cho các công trình theo kế hoạch đầu tư công trung hạn và đối ứng các công trình.

3. Việc thực hiện các kết luận liên quan đến xử lý vi phạm nuôi tôm thẻ chân trắng tại thị trấn Lăng Cô và xã Vinh Mỹ còn chậm.

4. Về thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới, sau khi áp dụng Bộ tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, một số tiêu chí các xã đã đạt từ những năm trước nhưng đến nay có nguy cơ không đạt.

5. Trong công tác quản lý rừng và đất lâm nghiệp của các địa phương, việc đo đạc, xác định ranh giới, đánh giá hiện trạng đất đai và trữ lượng rừng còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến việc xây dựng Phương án giao đất, giao rừng cho các hộ dân trên địa bàn chưa thực hiện được.

6. Lĩnh vực dịch vụ vẫn còn một số hạn chế nhất định; sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch còn nghèo nàn, chưa tương xứng với tiềm năng nên lượng khách du lịch lưu trú còn thấp; mô hình quản lý du lịch còn thiếu hiệu quả, công tác quản lý tài chính ở các HTX có tổ chức hoạt động du lịch còn thiếu chặt chẽ và nặng về doanh thu.

7. Do ảnh hưởng từ sự việc tại bãi chôn lấp chất thải rắn xã Lộc Thủy, đặc biệt là việc hỗ trợ ngừng nuôi 01 vụ cá ở Lăng Cô do ảnh hưởng GPMB thi công mở rộng Hầm đường bộ Hải Vân... số lượng đơn thư phát sinh nhiều, nên việc giải quyết đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân nhìn chung còn chậm.

III. ĐÁNH GIÁ GIỮA KỲ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016 - 2020

1. Đánh giá chung.

Trong ba năm qua, việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội diễn ra trong bối cảnh những khó khăn và thách thức đều lớn hơn so với dự báo. Tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, kinh tế thế giới phục hồi chậm; trong bối cảnh thị trường toàn cầu có nhiều biến động mạnh, đặc biệt là giá vàng liên tục biến động và giảm ở mức sâu trong thời gian qua đã tác động lớn tới hoạt động đầu tư. Ở trong nước, trong suốt hai năm 2016 và 2017, mặt bằng lãi suất tăng cao, nợ xấu của các ngân hàng vẫn còn tăng, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; quá trình điều chỉnh chính sách của nền kinh tế vẫn chưa đem lại kết quả mong đợi; kết quả thực hiện ba khâu đột phá chiến lược và tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng chưa đem lại hiệu quả rõ nét; tỷ trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước trong tổng đầu tư toàn xã hội còn ở mức cao, thu ngân sách hàng năm có tăng trưởng nhưng chưa bền vững; do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nên nhiều khó khăn, thách thức liên tiếp phát sinh như hạn hán nặng nề, dịch bệnh diễn biến phức tạp, có nguy cơ lây lan và bùng phát; trong nông nghiệp, giá cả các mặt hàng nông sản luôn trong tình trạng “được mùa mất giá”, giá thịt lợn giảm sâu... đã ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân.

Năm 2016, do ảnh hưởng của sự cố môi trường biển làm cá chết hàng loạt tại 04 tỉnh Miền Trung đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh dịch vụ, du lịch và đánh bắt thủy sản. Quá trình chỉ đạo khắc phục hậu quả do ảnh hưởng của sự cố môi trường biển tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện mất nhiều thời gian và công sức của cả hệ thống chính trị.

Tuy vậy, với sự quan tâm, hỗ trợ của Trung ương và của tỉnh, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện, kinh tế - xã hội tiếp tục đạt được những kết quả đáng khích lệ: Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tiềm lực kinh tế được tăng cường và phát triển; cơ sở hạ tầng được cải thiện đáng kể, quá trình đô thị hoá tăng nhanh; Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô đang dần trở thành vùng kinh tế động lực của tỉnh. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao; công tác quản lý đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn được tăng cường; các hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí diễn ra sôi nổi; các mục tiêu an sinh xã hội và đời sống nhân dân được quan tâm. Quốc phòng được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đó là những nền tảng, tiềm năng nội lực rất cơ bản cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong giai đoạn tới.

2. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đến năm 2018:

1. Tổng giá trị sản xuất (giá so sánh):  15.210 tỷ đồng (KH 21.660 tỷ đồng).

Trong đó:  - Dịch vụ chiếm tỷ trọng: 59,1% (KH 60,8%);

- Công nghiệp - xây dựng: 34,1% (KH 32,6%);

- Nông lâm ngư nghiệp: 6,8% (KH 6,6%).

2. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm: 12,5% (KH 15%)

3. Thu nhập bình quân đầu người đạt: 45 triệu đồng (KH 65-70 triệu đồng).

4. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 631,017 tỷ đồng (KH 596,4 tỷ đồng); trong đó thu cân đối ngân sách 160,070 tỷ đồng (KH 193,4 tỷ đồng).

5. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 3 năm: 19.500 tỷ đồng (KH 38.000 tỷ đồng).

6. Tỷ lệ đô thị hóa: 16,15% (KH 28%).

7. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 1,56% (KH 1,5 - 2%).

8. Tạo việc làm mới hàng năm từ 2.200-2.300 người/năm (KH 2.000-2.200).

9. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt: 57% (KH 60%).

10. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng: 7,5% (KH <7%).

11. Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch: 79,5% (KH >90%).

12. Tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 48% (KH >49%).

13. Số xã đạt chuẩn nông thôn mới 33,3% (KH >50%).

14. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân đạt 92% (KH >80%).

3. Dự báo khả năng thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu.

* Đối chiếu với 14 chỉ tiêu kế hoạch đề ra, có 09 chỉ tiêu đến năm 2019 - 2020 có khả năng sẽ đạt và vượt:

1. Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn đến năm 2018 ước đạt 631,017 tỷ đồng; trong đó thu cân đối ngân sách 160,070 tỷ đồng đạt tiến độ đề ra (chỉ tiêu đến năm 2020 đạt 596,4 tỷ đồng; trong đó thu cân đối ngân sách 193,4 tỷ đồng).

2. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí đa chiều giảm bình quân 1,56%/năm (chỉ tiêu giảm 1,13%; theo Chương trình hành động số 17-CTr/HU, ngày 17/10/2017).

3. Tạo việc làm mới bình quân hàng năm 2.300 lao động (chỉ tiêu là 2.000 - 2.200 lao động/năm).

4. Tỷ lệ lao động qua đào tạo 57% (chỉ tiêu 60%).

5. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng 7,5% (chỉ tiêu < 7%).

6. Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch 79,5% (chỉ tiêu > 90%).

7. Tỷ lệ độ che phủ rừng 48% (chỉ tiêu > 49%).

8. Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới 33,3% (chỉ tiêu > 50%).

9. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân 92%, (chỉ tiêu > 80%).

* Có 05 chỉ tiêu trong 3 năm qua đạt thấp, cần phải đặc biệt quan tâm và có giải pháp tích cực, đồng bộ để đạt mức cao nhất, đó là:

1. Tổng giá trị sản xuất 15.210 tỷ đồng (chỉ tiêu 21.660 tỷ đồng).

2. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm 12,5% (chỉ tiêu 15%)

3. Thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2016 - 2018 tăng 9,8%, đến năm 2018 đạt 45 triệu đồng (chỉ tiêu giai đoạn 2016 - 2020 tăng 15,6%, đến năm 2020 đạt 65 - 70 triệu đồng).

4. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 3 năm 2016-2018 là 19.500 tỷ đồng, đạt 51,3% kế hoạch (chỉ tiêu 38.000 tỷ đồng).

5. Tỷ lệ đô thị hóa 16,15%, (chỉ tiêu 28%).

Để thực hiện hoàn thành mục tiêu, chỉ tiêu và các nhiệm vụ chủ yếu mà kế hoạch giai đoạn 2015 - 2020 đề ra, trong hai năm còn lại của nhiệm kỳ, tranh thủ thời cơ, tập trung chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, dứt điểm, phấn đấu đạt và vượt cao nhất các chỉ tiêu mà kế hoạch đề ra; phấn đấu bức phá về tăng trưởng kinh tế, chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu đầu tư để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội; giữ vững quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, toàn diện đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

                                                                                     Phần II:

KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2019

I. MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

1. Mục tiêu

Tập trung đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút mạnh nguồn lực đầu tư trên địa bàn; tiếp tục ưu tiên phát triển lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng, tạo điều kiện phát triển các ngành dịch vụ trên các lĩnh vực đầu tư, thương mại để phục vụ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, phát triển đô thị và nông thôn mới; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo hướng hiện đại, sử dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn; phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng thâm canh, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, tạo ra sản phẩm hàng hóa. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Huy động mọi nguồn lực xã hội, tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chỉnh trang và phát triển đô thị gắn với xây dựng Nông thôn mới. Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân; thực hiện kịp thời và có hiệu quả các chính sách bảo đảm an sinh xã hội; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

2. Các chỉ tiêu KT-XH chủ yếu năm 2019:

1. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn               : 175,930 tỷ đồng

Trong đó thu cân đối ngân sách                           : 174,43 tỷ đồng

2. Chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn               : 536,912 tỷ đồng

3. Thu nhập bình quân đầu người                         : 52 triệu đồng

4. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội                             : 7.285 tỷ đồng

5. Tổng diện tích gieo trồng lúa                            : 6.700 ha

6. Sản lượng lương thực có hạt                              : 40,916 nghìn tấn

7. Sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thủy sản      : 10.420 tấn

Trong đó: Sản lượng nuôi trồng                            : 2.900 tấn

                 Sản lượng đánh bắt thủy sản               : 7.520 tấn

8. Lượt khách du lịch                                            : 1.199 nghìn lượt

9. Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ xã hội : 4.350 tỷ đồng

10. Tỷ lệ hộ nghèo                                                : 5,0%

11. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng         : 7,0%

12. Tạo việc làm mới                                            : 2.100 người

13. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt                       : 58%.

14. Tỷ lệ số hộ sử dụng nước sạch                        : 82,0%

15. Số xã đạt chuẩn nông thôn mới                      : Tăng 01-02 xã

16. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân             : Đạt trên 93%

II. CÁC CHƯƠNG TRÌNH KTXH TRỌNG ĐIỂM

1. Chương trình xây dựng nông thôn mới và đảm bảo an sinh xã hội.

2. Chương trình cải cách hành chính.

3. Chương trình phát triển dịch vụ - du lịch.

4. Chương trình đầu tư kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị.

5. Chương trình hỗ trợ phát triển Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô và các dự án trên địa bàn huyện.

III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH, LĨNH VỰC CHỦ YẾU

1. Phát triển sản xuất

a) Ngành dịch vụ: Phấn đấu doanh thu du lịch đạt 1.391 tỷ đồng, tăng 15,9%, thu hút khách du lịch đến địa phương 1.199 nghìn lượt, tăng 20,1%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng phấn đấu đạt 4.350 tỷ đồng, tăng 17,5%.

Phát triển ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu kinh tế, đa dạng các loại hình dịch vụ, ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế gắn với cải thiện chất lượng dịch vụ theo hướng đầu tư chiều sâu. Tiếp tục đầu tư mở rộng các chợ trên địa bàn, xây dựng các trung tâm thương mại theo quy hoạch, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng giao thương và phát triển kinh doanh. Tiếp tục thực hiện việc chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ Lăng Cô (thị trấn Lăng Cô) và công tác xây dựng chợ văn minh thương mại đối với chợ Nước Ngọt, xã Lộc Thủy và chợ Nong, xã Lộc Bổn. Tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân.

Về du lịch, tập trung các giải pháp cải thiện môi trường du lịch, chất lượng dịch vụ du lịch; thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển du lịch, đa dạng các loại hình du lịch như nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch tâm linh, du lịch cộng đồng vùng ven đầm Cầu Hai, Lăng Cô, Lộc Bình, biển Bình An - Cảnh Dương, biển Vinh Hiền, Vinh Hải...; liên kết để hình thành các tour tuyến du lịch, góp phần thu hút và tăng lượng khách du lịch lưu trú; đầu tư hoàn thiện, mở rộng hệ thống hạ tầng vào các khu du lịch, điểm du lịch sinh thái đáp ứng yêu cầu của du khách. Đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá, nhằm thu hút khách du lịch thông qua Website du lịch huyện và cẩm nang du lịch Phú Lộc.

Tăng cường kêu gọi các nhà đầu tư, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình du lịch, văn hoá, thể thao. Hoàn thành và đưa vào thực hiện có hiệu quả Đề án "Sắp xếp và phát triển các điểm du lịch trên địa bàn huyện", Dự án "du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại xã Lộc Bình"; đẩy mạnh công tác quản lý danh hiệu, giới thiệu, quảng bá danh hiệu Vịnh đẹp thế giới Lăng Cô. Thực hiện tốt công tác cứu hộ, cứu nạn, chống đuối nước tại các điểm kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn huyện.

Tổ chức thực hiện Đề án phát triển dịch vụ - du lịch huyện giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030, với các nhiệm vụ trọng tâm như: Hoàn chỉnh hạ tầng theo quy hoạch, nâng cấp, cải tạo, mở rộng một số chợ để đáp ứng với nhu cầu phát triển (chợ Lộc An, chợ Lăng Cô, hình thành khu phố chợ Vinh Hiền, chợ Cầu Hai…). Kêu gọi xã hội hóa đầu tư chợ Lăng Cô kết hợp với trung tâm mua sắm theo quy hoạch của Khu Kinh tế Chân Mây - Lăng Cô; chợ Đồi 30, xã Lộc Điền. Xúc tiến mở mới tuyến xe buýt về Lộc Bình.

b) Ngành công nghiệp - xây dựng: Phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp có lợi thế như sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản, gạch xây dựng, đá granit đen, chế biến thủy hải sản…

Khuyến khích, tạo điều kiện thu hút các ngành công nghiệp tận dụng nguồn nguyên liệu, lao động địa phương, góp phần nâng cao thu nhập, mức sống dân cư. Tiếp tục phối hợp kêu gọi đầu tư lấp đầy Khu công nghiệp La Sơn, thực hiện việc di dời các doanh nghiệp cưa xẻ gỗ, các cơ sở sản xuất công nghiệp vào cụm công nghiệp tập trung trong Khu công nghiệp La Sơn. Xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm công nghiệp, làng nghề địa phương, hỗ trợ quảng bá nhãn hiệu cho các sản phẩm đã đăng ký. Tiếp tục thực hiện tốt đề án Khôi phục và phát triển làng nghề dầu tràm Lộc Thủy, chú trọng công tác tổ chức thiết kế, cải tiến mẫu mã, bao bì sản phẩm dầu tràm làm hàng lưu niệm, quà tặng; khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất; tăng cường hoạt động quảng bá thương hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại cho sản phẩm của làng nghề; tăng cường công tác quản lý chất lượng dầu tràm, hướng dẫn và tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện quy chuẩn kỹ thuật địa phương đối với sản phẩm tinh dầu tràm Huế; Xúc tiến hỗ trợ đầu tư đối với các thương hiện sản phẩm trên địa bàn có chất lượng tốt.

Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, kịp thời tháo gỡ vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình xây dựng; đặc biệt là các chương trình phát triển và chỉnh trang đô thị, chương trình xây dựng nông thôn mới, các công trình hạ tầng thiết yếu ở vùng khó khăn. Tập trung công tác quy hoạch, đầu tư hạ tầng, tổ chức bán đấu giá giao quyền sử dụng đất để đầu tư các công trình thuộc nguồn vốn ngân sách huyện.

Trên cơ sở dự kiến nguồn lực đầu tư từ ngân sách, kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016 - 2020, công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện theo các tiêu chí: Ưu tiên trả nợ vốn vay, trả nợ các công trình đã quyết toán và hoàn thành trong năm 2018, danh mục những công trình theo thứ tự ưu tiên trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016 - 2020, những công trình đã phê duyệt đầu tư chưa bố trí vốn, những công trình hoàn thành các thủ tục chuẩn bị đầu tư theo quy định của Luật đầu tư công.

c) Ngành nông nghiệp:

Tập trung đầu tư thâm canh, ổn định diện tích gieo trồng khoảng 9.000 ha, trong đó, diện tích lúa khoảng 6.700 ha, giống lúa xác nhận đưa vào sản xuất trên 95% và quy hoạch 100 ha đủ điều kiện để sản xuất lúa giống tại chỗ (vụ Đông Xuân 56 ha, vụ Hè Thu 44 ha); năng suất lúa bình quân cả năm khoảng 61 tạ/ha, sản lượng lương thực có hạt 40,9 nghìn tấn; các cây trồng khác ổn định diện tích và năng suất. Tiếp tục thực hiện đề án Chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với đất trồng lúa bị thiếu nước. Ổn định và nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm hiện có.

Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, an toàn và hiệu quả; đa dạng hoá đối tượng, hình thức nuôi. Ổn định diện tích nuôi trồng 1.305 ha, trong đó nuôi nước lợ 985 ha (xen ghép 870 ha, nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh 115 ha), nuôi cá nước ngọt 320 ha; nuôi lồng 4.420 cái (lồng nước ngọt 320 cái, lồng nước lợ 4.100 cái), nuôi bể xi măng 8.000 m3. Nghiên cứu, có giải pháp phù hợp để hỗ trợ người dân lựa chọn được con giống có chất lượng tốt.

Phấn đấu tổng sản lượng thuỷ sản đạt 10.420 tấn, trong đó, sản lượng nuôi trồng 2.900 tấn (gồm: tôm 900 tấn, cua 150 tấn, cá nước lợ 650 tấn, cá nước ngọt 1.000 tấn, nhuyễn thể 200 tấn), sản lượng khai thác 7.520 tấn (khai thác biển 5.600 tấn, sông đầm 1.920 tấn).

Tập trung giải pháp nâng cao năng suất các loại cây trồng, chất lượng sản phẩm nông lâm thuỷ sản. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm; phát triển kinh tế vùng gò đồi. Tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm, củng cố và kiện toàn hệ thống thú y cơ sở. Tổ chức đánh giá kết quả thực hiện các mô hình phát triển sản xuất để lựa chọn, nhân rộng các mô hình hiệu quả. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình quốc gia mỗi xã một sản phẩm. Lập Đề án xây dựng cánh đồng mẫu vùng trọng điểm lúa và phát triển một số sản phẩm nông nghiệp sạch trên địa bàn huyện giai đoạn 2018 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025. Rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các Hợp tác xã để có định hướng, củng cố phù hợp.

Chú trọng công tác quản lý, bảo vệ, phòng, chống cháy rừng; bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, bảo vệ tốt rừng trồng ở các địa phương. Phấn đấu đạt độ che phủ rừng 48,5%. Tăng cường thực hiện các biện pháp quản lý rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn, tiếp tục duy trì hoạt động của Đoàn kiểm tra liên ngành đất lâm nghiệp nhằm xử lý dứt điểm các trường hợp vi phạm lấn chiếm rừng, đất rừng và khai thác rừng trái phép, đặc biệt là diện tích đất lâm nghiệp do các tổ chức bàn giao cho các địa phương. Xây dựng kế hoạch bảo vệ các diện tích rừng thông ở những khu vực quan trọng, xung yếu nhằm làm điểm nhấn, tạo cảnh quan và chống sạt lở đất.

Tăng sản lượng khai thác thủy sản theo hướng đánh bắt xa bờ. Có biện pháp ngăn chặn, xử lý việc đánh bắt bằng lừ xếp có mắc lưới vi phạm quy định, việc cơi nới nò sáo không đảm bảo quy hoạch và các phương tiện đánh bắt mang tính hủy diệt khác. Tuyên truyển, phổ biến và quản lý chặt chẽ việc thực hiện Quyết định số 72/2014/QĐ-UBND ngày 27/11/2014 của UBND tỉnh ban hành Quy định về nuôi tôm chân trắng trên vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, Lăng Cô; lập thủ tục xử lý cưỡng chế các trường hợp vi phạm theo đúng quy định. Tăng cường công tác quản lý tại các khu bảo vệ thủy sản vùng đầm phá Cầu Hai.

Tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, nhất là ở các xã mới được bổ sung quy hoạch: Lộc Tiến, Lộc Thủy, Lộc Vĩnh. Xây dựng kế hoạch huy động nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực trong nhân dân nhằm phấn đấu xã Lộc Hòa đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới trong năm 2019. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy hoạch nông thôn mới của các xã đảm bảo phù hợp; duy trì, nâng cao những tiêu chí đã đạt được; tập trung hoàn thành tiêu chí thu nhập và các tiêu chí đòi hỏi chi phí đầu tư thấp hoặc không cần chi phí đầu tư.

2. Quy hoạch, xây dựng, giải phóng mặt bằng

Tiếp tục hoàn chỉnh và đưa vào thực hiện các đề án, đồ án quy hoạch theo kế hoạch. Tiếp tục thực hiện lập quy hoạch chi tiết trục vành đai đô thị mới La Sơn, khu vực trung tâm đô thị mới Vinh Hiền nhằm cụ thể hóa các đồ án quy hoạch chung đô thị mới La Sơn và Vinh Hiền, làm cơ sở cho việc quản lý và sử dụng đất có hiệu quả, công tác lập các dự án đầu tư xây dựng, kết nối hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đảm bảo đồng bộ và quản lý xây dựng theo quy hoạch.

Triển khai rà soát quy hoạch chung thị trấn Phú Lộc để trình thẩm định và phê duyệt điều chỉnh. Lập Quy hoạch chi tiết Trung tâm thương mại và khu dân cư trục đường 19 tháng 5, thị trấn Phú Lộc; triển khai thực hiện đầu tư xây dựng chỉnh trang cảnh quan đô thị khu vực đèo Mũi Né theo dự án đã được phê duyệt.

Tích cực phối hợp thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng để triển khai xây dựng các công trình, dự án đầu tư trên địa bàn, đặc biệt là các dự án lớn, quan trọng như: Mở rộng các hầm đường bộ Hải Vân, Phước Tượng và Phú Gia (nhánh 2), đường vào Vườn quốc gia Bạch Mã và các công trình, dự án ở Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô, Khu công nghiệp La Sơn.

3. Tài chính ngân sách

Thu ngân sách nhà nước tại địa phương phấn đấu đạt 175,930 tỷ đồng; trong đó, thu cân đối ngân sách 174,430 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương 536,912 tỷ đồng, trong đó chi ngân sách huyện 452,241 tỷ đồng.

Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ thu ngân sách nhằm đạt và vượt kế hoạch, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi. Thực hiện các biện pháp tăng nguồn thu, trong đó, chú trọng các nguồn thu từ sản xuất kinh doanh, thu tiền sử dụng đất; đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, cải cách thủ tục hành chính và các chính sách hỗ trợ, ưu đãi khác cho các tổ chức, cá nhân để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, nhằm tạo đột phá trong công tác thu ngân sách; đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát chống thất thu, thực hành tiết kiệm chi, chống lãng phí, thất thoát. Quản lý chi tiêu hợp lý, đúng chế độ, xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp.

4. Về văn hoá, xã hội

a) Giáo dục và đào tạo: Tập trung đổi mới công tác quản lý, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đổi mới công tác hành chính; đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học theo quy hoạch, đẩy mạnh xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia theo đúng lộ trình, sớm đưa giáo dục huyện Phú Lộc ngang tầm với các đơn vị bạn trong toàn tỉnh.

b) Y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân: Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở y tế tuyến xã, để chăm sóc sức khỏe ban đầu và giảm tải cho tuyến trên. Kết hợp giữa y học hiện đại với y học cổ truyền. Thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế; công tác khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi. Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn 7,0%.

c) Dân số, kế hoạch hoá gia đình: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả đề án "Giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên", ổn định tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, góp phần nâng cao chất lượng dân số. Phấn đấu duy trì tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức 1%, giảm sinh 0,2‰, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm 0,5%.

d) Văn hóa thông tin, thể dục thể thao: Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới; chống bạo lực gia đình. Xây dựng các thiết chế văn hoá cơ sở. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao đến tận cơ sở; đa dạng loại hình và phương thức tổ chức thể dục thể thao gắn với các hoạt động văn hóa, du lịch, dịch vụ. Tập trung tuyên truyền, cổ động trực quan và tổ chức các hoạt động văn hoá, lễ hội chào mừng các sự kiện lớn trong năm; kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội dân gian, sinh hoạt văn hoá cộng đồng.

đ) Lao động việc làm, Nguời có công và an sinh xã hội: Tạo việc làm mới cho hơn 2.100 lao động; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 58%. Giảm tỷ lệ hộ nghèo 5,81%, còn 5,0% vào cuối năm 2019; nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc, vùng miền núi, ven biển, đầm phá.

Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo; thực hiện tốt công tác bình đẳng giới, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, điều tra cung lao động, tích hợp chính sách giảm nghèo theo kế hoạch của UBND tỉnh; Chỉ đạo giải quyết việc làm cho người lao động thông qua các chương trình phát triển kinh tế, sàn giao dịch việc làm, xuất khẩu lao động. Tăng cường phối hợp với các đơn vị tham gia dạy nghề trên địa bàn nhằm đảm bảo chất lượng và đáp ứng nhu cầu tuyển dụng tổ chức chiêu sinh đào tạo nghề cho lao động ở các xã, thị trấn bị ảnh hưởng sự cố môi trường biển. Chỉ đạo các xã, thị trấn thực hiện tốt quản lý tốt các công trình nghĩa trang liệt sĩ đảm bảo khang trang, xứng đáng là nơi tôn nghiêm, tri ân các vị anh hùng liệt sĩ, quan tâm chăm sóc các mẹ VNAH còn sống, Người có công thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ khó khăn.... Tuyên truyền, hướng dẫn nhằm giảm thiểu các thiệt hại do tai nạn, thiên tai, hạn chế tới mức thấp nhất đối tượng phải cứu trợ đột xuất. Di dời, bố trí lại dân cư ra khỏi vùng ngập lụt, vùng sạt lở, ven sông, ven biển. Theo dõi chặt chẽ các đối tượng bị thiệt hại do sự cố ô nhiễm môi trường biển để đề xuất chính sách hỗ trợ kịp thời giúp bà con vượt qua khó khăn, ổn định đời sống và sản xuất.

5. Quản lý trật tự xây dựng và tài nguyên, môi trường:

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về trật tự xây dựng và tài nguyên, môi trường. Thường xuyên kiểm tra, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm xây dựng trái phép hoặc không đúng giấy phép được cấp. Xây dựng kế hoạch xử lý cưỡng chế các trường hợp vi phạm, hạn chế tối đa các trường hợp vi phạm phát sinh mới.

Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng về bảo vệ tài nguyên, môi trường. Lồng ghép các nội dung về bảo vệ môi trường vào nội dung cuộc vận động “Xây dựng đơn vị, làng, thôn bản, gia đình văn hóa”; chú trọng truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức về môi trường và ý thức bảo vệ môi trường đối với thế hệ trẻ, lực lượng thanh, thiếu niên. Tăng cường vận động, lồng ghép các nguồn lực đầu tư từ doanh nghiệp và nhân dân cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường. Xây dựng các quy định, quy chế bảo vệ môi trường, đặc biệt là tại khu du lịch sinh thái biển Lăng Cô, khu vực đầm Cầu Hai, đầm Lăng Cô.

Kiểm tra tình hình xử lý chất thải, nước thải ở các đơn vị sản xuất kinh doanh, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề; kiểm tra, chấn chỉnh tình hình khai thác đất, cát, sỏi làm vật liệu xây dựng trên địa bàn. Phối hợp với các ban, ngành cấp tỉnh và Công ty cổ phần Môi trường và Công trình đô thị Huế áp dụng giải pháp công nghệ vào xử lý tại Bãi chôn lấp chất thải rắn thôn Nam Phước, xã Lộc Thủy. Rà soát, quy hoạch lại các điểm tập kết rác thải sinh hoạt trên địa bàn các xã, thị trấn đảm bảo phù hợp.

Xây dựng Đề án tăng cường quản lý quy hoạch, sử dụng đất và tài nguyên môi trường giai đoạn 2018 - 2020, định hướng đến năm 2025. Tổ chức lập và quản lý chặt chẽ việc tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hàng năm. Tiếp tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích chưa được cấp; thực hiện hoàn thành công tác cấp đổi để phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính trên địa bàn huyện. Thực hiện tốt công tác quản lý đất đai, nhất là công tác giao đất, cho thuê đất; xử lý nghiêm, kịp thời các trường hợp vi phạm lấn chiếm đất đai. Phối hợp với các Sở ngành liên quan kiểm tra các dự án đầu tư đã được giao đất, cho thuê đất trên địa bàn để có hướng giải quyết đối với các dự án vi phạm tiến độ sử dụng đất theo kế hoạch đã được cấp phép.

6. Khoa học công nghệ, cải cách hành chính

Tăng cường ứng dụng các tiến bộ mới về khoa học công nghệ vào sản xuất và bảo vệ môi trường. Đặc biệt chú trọng áp dụng công nghệ sinh học, vật liệu mới, công nghệ sạch... liên kết với một số trung tâm dịch vụ khoa học - kỹ thuật để thực hiện ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, đăng ký sở hữu trí tuệ, tạo lập thương hiệu cho các sản phẩm của địa phương. Phối hợp triển khai thực hiện dự án “Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây dựng mô hình sản xuất rau an toàn theo công nghệ tiến tiến, đạt tiêu chuẩn VietGAP tại huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế” và các đề tài khoa học công nghệ khác sau khi được phê duyệt.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trong đó, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả giám sát, quản lý; phát huy hiệu quả hoạt động của Trung tâm Hành chính công huyện, Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả hiện đại các xã, thị trấn; rà soát các thủ tục hành chính để đề xuất rút ngắn quy trình, giảm thời gian xử lý; tăng cường tuyên truyền, phổ biến việc triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 theo danh mục TTHC do UBND tỉnh ban hành nhằm góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi giao dịch hồ sơ TTHC. nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân. Hoàn chỉnh hạ tầng hệ thống mạng đảm bảo kết nối thông suốt từ huyện đến xã. Nâng cấp hệ thống họp trực tuyến huyện - xã để phát huy hiệu quả và đẩy mạnh áp dụng; thường xuyên kiểm tra nhằm đảm bảo thực hiện tốt việc liên thông xử lý văn bản điện tử 4 cấp chính quyền và áp dụng chữ ký số thông qua phần mềm Quản lý văn bản và điều hành; triển khai liên thông giải quyết thủ tục hành chính từ xã - huyện - tỉnh qua phần mềm Xử lý dịch vụ công tập trung. Tiếp tục duy trì và cải tiến Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2015 tại các phòng, ban chuyên môn cấp huyện và UBND các xã, thị trấn.

7. Quốc phòng an ninh và công tác nội chính

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp, đảm bảo quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Chuẩn bị tốt các điều kiện để tuyển chọn và gọi quân nhân nhập ngũ năm 2019. Chủ động nắm chắc tình hình âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm, không để bị động bất ngờ; tổ chức đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm hình sự, làm tốt công tác phòng ngừa, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc tại cơ sở nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, toàn dân.

Chỉ đạo thực hiện Chương trình hành động về công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng tham nhũng và lãng phí. Từng bước đổi mới công tác tiếp dân, gắn với giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tập trung giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài; hạn chế tối đa tình trạng khiếu kiện vượt cấp. Nâng cao ý thức chấp hành luật pháp trong cán bộ và nhân dân; tuyên truyền phổ biến pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật.

8. Chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai

Triển khai các kế hoạch bảo vệ môi trường và thích nghi với biến đổi khí hậu gắn với xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường. Xây dựng và tổ chức thường xuyên các chương trình truyền thông để vận động, giáo dục, nâng cao nhận thức của toàn dân về bảo vệ môi trường, quản lý rủi ro thiên tai theo phương châm “Chủ động phòng, tránh, thích nghi để phát triển”. Tập huấn nâng cao nhận thức cộng đồng về mức độ nguy hiểm của thiên tai, biến đổi khí hậu.

Thường xuyên tổ chức kiểm tra, duy tu, nâng cấp các công trình thủy lợi, đê bao, tiêu thoát nước, nạo vét kênh mương, tích nước các hồ đập nhằm đảm bảo cho việc tưới tiêu, phục vụ sản xuất, phòng chống hạn hán. Xây dựng phương án cụ thể về phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, di dân ra khỏi các khu vực có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở đất nhằm giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản, hạn chế sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên, môi trường do thiên tai gây ra. Huy động và bố trí hợp lý các lực lượng cứu hộ, cứu nạn trong mùa mưa bão./.

Phương Thảo
       
CÁC TIN KHÁC
Xem theo ngày