Tìm kiếm tin tức
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 11/2011
31/10/2011 5:17:PM

Cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục cho trường mầm non; Đình chỉ hoạt động trường cao đẳng sau 3 năm không tuyển sinh; Lệ phí chi trả bảo hiểm được quy định ở mức 0,78%; Miễn học phí cho con của hạ sỹ quan, binh sỹ tại ngũ; Trước 31/12/2015, hoàn thành cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh; Buộc công khai kết luận thanh tra trong 10 ngày; Phạt đến 40 triệu đồng đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá; Bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù; Thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc; Quy định về chăm sóc, quản lý học sinh trường giáo dưỡng; Quy định danh mục các nhóm phương tiện, thiết bị phải dán nhãn năng lượng; Quy định các chức danh tương đương để xét khen thưởng trong ngành Công an nhân dân...là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 11/2011.

Cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục cho trường mầm non

Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) vừa ban hành Thông tư số 45/2011/TT-BGDĐT về việc ban hành quy định về quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non.

Đây là việc làm nhằm giúp nhà trường xác định mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn, để xây dựng kế hoạch cải tiến, nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ; thông báo công khai với các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội về thực trạng chất lượng giáo dục của nhà trường; để cơ quan quản lý nhà nước đánh giá và công nhận nhà trường đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Theo đó, Thông tư áp dụng với trường mầm non, nhà trẻ và trường mẫu giáo thuộc các loại hình trong hệ thống giáo dục quốc dân; tổ chức và cá nhân có liên quan.

Kiểm định chất lương giáo dục trường mầm non là hoạt động đánh giá trường mầm non (bao gồm tự đánh giá và đánh giá ngoài) để xác định mức độ nhà trường đáp ứng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục và việc công nhận nhà trường đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục của cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, quy trình kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non gồm: Tự đánh giá của trường mầm non; đăng ký đánh giá và đăng ký công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục của trường mầm non; đánh giá ngoài trường mầm non; công nhận trường mầm non đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục và cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục.

Chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục là 5 năm, tính từ thời gian ký quyết định cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục. Trường mầm non đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục theo 2 cấp độ. Trường hợp cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục còn thời hạn mà trường mầm non không còn đáp ứng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục thì giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục bị thu hồi.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26/11/2011.

Chỉ công nhận “Gia đình văn hóa”; khu dân cư văn hóa đối với những trường hợp có đăng ký thi đua

Ngày 10/10/2011, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã ban hành Thông tư số 12/2011/TT-BVHTTDL quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận Danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” (sau đây gọi chung là khu dân cư văn hóa) và tương đương.

Theo quy định tại Thông tư này, chỉ công nhận “Gia đình văn hóa”; khu dân cư văn hóa đối với những trường hợp có đăng ký thi đua. Danh hiệu “Gia đình văn hóa” do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn công nhận 01 lần/năm; công nhận và kèm theo Giấy công nhận 03 năm/lần. Khu dân cư văn hóa do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh/thành phố công nhận 03 năm/lần.

Tiêu chuẩn danh hiệu “Gia đình văn hóa” về cơ bản giống như quy định trước đây, tuy nhiên các tiêu chuẩn khu dân cư văn hóa được giảm xuống đáng kể về các mặt: Đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển; đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú; môi trường cảnh quan sạch đẹp; chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và có tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng.

Danh sách “Gia đình văn hóa” được công bố trên loa truyền thanh ở khu dân cư; được biểu dương tại “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” (ngày 18/11 hàng năm) ở khu dân cư; “Gia đình văn hóa” 3 năm, được ghi vào “Sổ truyền thống gia đình văn hóa” ở khu dân cư…

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 24/11/2011 và thay thế Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT/MTTW-BVHTT ngày 23/06/2006; bãi bỏ Quyết định số 62/2006/QĐ-BVHTT ngày 23/06/2006; bãi bỏ khoản V, Điều 2 Thông tư số 07/2011/TT-BVHTTDL ngày 07/06/2011.

Đình chỉ hoạt động trường cao đẳng sau 3 năm không tuyển sinh

Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã ban hành Thông tư số 43/2011/TT-BGDĐT ngày 04/10/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 14/2009/TT-BGDĐT ngày 28/05/2009 ban hành Điều lệ trường cao đẳng và Quyết định số 06/2008/QĐ-BGDĐT ngày 13/02/2008 quy định đào tạo liên thông trình độ cao đẳng, đại học.

Điểm đáng chú ý là Thông tư có sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện thành lập trường, đình chỉ hoạt động và giải thể trường cao đẳng; cụ thể, thay vì 02 trường hợp như quy định trước đây thì với việc ban hành Thông tư này, có đến 05 trường hợp trường cao đẳng có thể bị đình chỉ hoạt động là: Có hành vi gian lận để được cho phép hoạt động đào tạo; Không bảo đảm một trong các điều kiện đăng ký hoạt động; Người cho phép hoạt động đào tạo không đúng thẩm quyền; Sau 03 năm kể từ khi có quyết định cho phép hoạt động đào tạo, nhà trường không tuyển sinh và tổ chức đào tạo; Trường vi phạm quy định của pháp luật về giáo dục, bị xử phạt vi phạm hành chính ở mức độ đình chỉ.

Sau thời hạn đình chỉ, nếu trường cao đẳng khắc phục được những nguyên nhân dẫn đến việc đình chỉ thì Bộ trưởng Bộ GD&ĐT xem xét, quyết định cho phép nhà trường hoạt động đào tạo trở lại; trường hợp hết thời hạn đình chỉ hoạt động mà vẫn không khắc phục được nguyên nhân bị đình chỉ, trường cao đẳng phải tiến hành thủ tục giải thể.

Cũng tại Thông tư này còn có một số sửa đổi, bổ sung khác như: Để được đăng ký hoạt động, trường cao đẳng phải đảm bảo tỷ lệ không quá 25 sinh viên/giảng viên mỗi khối kiến thức của tất cả các ngành đào tạo (thay vì tỷ lệ 30 sinh viên/giảng viên như quy định trước đây), trong đó có ít nhất 15% giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên.

Việc đăng ký tên trường cao đẳng cũng được quy định cụ thể hơn, theo đó, tên trường cao đẳng đăng ký bằng tiếng Việt và tiếng Anh, bao gồm các thành phần: Trường cao đẳng + tên lĩnh vực hoặc ngành đào tạo chính (nếu cần) + tên riêng. Tên trường cao đẳng không được trùng lặp hoặc gây nhầm lẫn với tên của các trường cao đẳng, trường đại học đã đăng ký, không vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của cá nhân và tổ chức khác theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ. Các trường cao đẳng cần đăng ký bảo hộ tên trường rút gọn bằng tiếng Việt và tiếng Anh.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/11/2011.

Lệ phí chi trả bảo hiểm được quy định ở mức 0,78%

Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 134/2011/TT-BTC ngày 30/09/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Quyết định số 04/2011/QĐ-TTg ngày 20/01/2011 về quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam.

Thông tư yêu cầu các đơn vị thuộc BHXH Việt Nam; BHXH thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ và các đơn vị thuộc ngành lao động mở tài khoản tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước hoặc Ngân hàng thương mại Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi của hoạt động quản lý BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.

Mức lệ phí chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội được quy định thống nhất là 0,78% (trừ các khoản chi đóng bảo hiểm y tế); lệ phí chi trả trợ cấp thất nghiệp bằng 0,78% tổng số chi trả chế độ trợ cấp thất nghiệp cho người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định. Cũng theo Thông tư này, kết thúc năm tài chính, BHXH Việt Nam tổng hợp toàn bộ số tiền sinh lời thực thu được trong năm của hoạt động đầu tư các quỹ bảo hiểm và tiền lãi phát sinh trên tài khoản tiền gửi các quỹ bảo hiểm. Đối với số tiền lãi phân bổ vào quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc được bổ sung vào quỹ hưu trí, tử tuất.

BHXH Việt Nam phải trích 2% tổng số tiền sinh lời thực thu trong năm của hoạt động đầu tư các quỹ bảo hiểm nêu trên vào quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động đầu tư từ các quỹ bảo hiểm; mở sổ kế toán để theo dõi số tiền lãi phải thu của hoạt động đầu tư từ các quỹ bảo hiểm…

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2011; các quy định tại Thông tư này được thực hiện từ năm ngân sách 2011. Bãi bỏ các Thông tư số 58/2007/TT-BTC ngày 12/06/2007, số 82/2008/TT-BTC ngày 30/09/2008 và số 96/2009/TT-BTC ngày 20/05/2009.

Miễn học phí cho con của hạ sỹ quan, binh sỹ tại ngũ

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2011/NĐ-CP ngày 29/09/2011 về chế độ, chính sách đối với gia đình, thân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ, gồm: Bố, mẹ đẻ; bố, mẹ vợ hoặc bố, mẹ chồng; người nuôi dưỡng hợp pháp; vợ hoặc chồng; con đẻ; con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ.

Trong đó, học sinh là con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan, binh sĩ được miễn học phí khi học ở các cơ sở giáo dục mầm non công lập và ngoài công lập theo quy định tại Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010.

Gia đình và thân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ được trợ cấp khó khăn đột xuất trong trường hợp gặp tai nạn, hỏa hoạn, thiên tai dẫn đến bị sập nhà, trôi nhà, cháy nhà hoặc gia đình phải di dời chỗ ở thì được trợ cấp mức 02 triệu đồng/lần; thân nhân ốm đau từ 01 tháng trở lên hoặc điều trị một lần tại bệnh viện từ 07 ngày trở lên được trợ cấp ở mức 500.000 đồng/lần; các chế độ trợ cấp này được thực hiện không quá 02 lần/năm. Thân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ từ trần, mất tích thì được trợ cấp mức 01 triệu đồng/suất.

Những người có hành vi làm sai lệch hoặc giả mạo hồ sơ để được hưởng chế độ, chính sách đối với gia đình, thân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bồi thường thiệt hại (nếu có) theo quy định của pháp luật.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2011 và thay thế Nghị định số 106/2007/NĐ-CP ngày 22/06/2007 về chế độ, chính sách đối với gia đình hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ.

Trước 31/12/2015, hoàn thành cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề khám, chữa bệnh

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 87/2011/NĐ-CP ngày 27/09/2011, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khám bệnh, chữa bệnh.

Nghị định quy định cụ thể về 07 loại hình tổ chức của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, gồm: Bệnh viện; Cơ sở giám định y khoa; Phòng khám bệnh, chữa bệnh; Nhà hộ sinh; Cơ sở chẩn đoán; Cơ sở dịch vụ y tế và Trạm y tế cấp xã, y tế cơ quan, đơn vị, tổ chức.

Về lộ trình cấp giấy phép hoạt động đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước; cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước, Chính phủ yêu cầu phải hoàn thành việc cấp giấy phép và chứng chỉ hành nghề trước ngày 31/12/2015.

Cũng theo Nghị định này, ngoài các điều kiện được quy định tại Điều 43 Luật Khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chỉ được cấp giấy phép hoạt động khi đáp ứng đủ các quy định của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và có đủ người hành nghề phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

Cơ sở khám bệnh chữa bệnh tư nhân đã được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề y tư nhân, người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tư nhân đã được cấp chứng chỉ hành nghề để làm người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân theo quy định của Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân có giá trị sử dụng đến hoặc sau ngày 31/12/2010 thì được tiếp tục hoạt động khám bệnh, chữa bệnh hoặc hành nghề khám bệnh, chữa bệnh cho tới khi được cấp giấy phép hoạt động hoặc chứng chỉ hành nghề mới trước ngày 31/12/2012.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2011 và thay thế Nghị định số 103/2003/NĐ-CP ngày 02/09/2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân.

Buộc công khai kết luận thanh tra trong 10 ngày

Ngày 22/09/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, trong đó có quy định bắt buộc công khai các kết luận thanh tra, trừ những nội dung trong kết luận thanh tra thuộc bí mật nhà nước.

Cụ thể, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ký kết luận thanh tra, người ra kết luận thanh tra có trách nhiệm thực hiện việc công khai kết luận thanh tra. Việc công khai kết luận thanh tra được công bố tại cuộc họp với thành phần gồm người ra quyết định thanh tra hoặc người được ủy quyền, đại diện Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Ngoài việc công khai kết luận thanh tra nêu trên, người ra kết luận thanh tra lựa chọn ít nhất một trong các hình thức: Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên Trang thông tin điện tử của cơ quan thanh tra, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp; niêm yết kết luận thanh tra tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.

Cũng theo Nghị định này, trong quá trình thanh tra, khi có căn cứ kết luận tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép hoặc bị thất thoát do hành vi trái pháp luật của đối tượng thanh tra gây ra thì người ra quyết định thanh tra ra quyết định thu hồi. Quyết định thu hồi phải bằng văn bản, trong đó ghi rõ số tiền, tài sản phải thu hồi, trách nhiệm của cơ quan thực hiện, thời gian thực hiện, trách nhiệm của đối tượng có tiền, tài sản bị thu hồi.

Khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra tẩu tán tài sản, không thực hiện quyết định thu hồi tiền, tài sản của cơ quan thanh tra nhà nước hoặc của Thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước thì người ra quyết định thanh tra có văn bản yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa tài khoản để phục vụ việc thanh tra.

Nếu phát hiện việc sử dụng tái pháp luật các khoản tiền, đồ vật, giấy phép mà xét thấy cần phải ngăn chặn ngay hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý thì Trưởng đoàn thanh tra đề nghị người ra quyết định thanh tra ra quyết định tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép…

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2011; thay thế các Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/03/2005 và số 61/1998/NĐ-CP ngày 15/08/1998 của Chính phủ về công tác thanh tra, kiểm soát doanh nghiệp hết hiệu lực thi hành.

Phạt đến 40 triệu đồng đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá

Ngày 20/09/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị định số 84/2011/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá, trong đó mức xử phạt cao nhất đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này sẽ tăng từ 30 lên 40 triệu đồng.

Cụ thể, mức phạt cao nhất 40 triệu đồng được áp dụng đối với hành vi bán hàng hóa thấp hơn giá sàn, mức giá tổi thiểu hoặc cao hơn giá tối đa do cơ quan có thẩm quyền công bố hoặc quy định.

Đối với nhóm hành vi vi phạm quy định về bình ổn giá, mức phạt tiền là 10 triệu đồng khi doanh nghiệp không báo cáo, hoặc báo cáo không đúng quy định theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Phạt tiền 15 triệu đồng đối với hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các biện pháp bình ổn giá do cơ quan có thẩm quyền quy định; mức phạt lên đến 30 triệu đồng đối với hành vi vi phạm quy định về trích lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá.

Hành vi khai man, khai khống hồ sơ thanh toán để nhận tiền trợ giá, trợ cước vận chuyển hàng hóa và các khoản tiền hỗ trợ để thực hiện chính sách giá, trợ cước; hành vi sử dụng không đúng mục đích, không đúng đối tượng được sử dụng tiền trợ giá, tiền trợ cước vận chuyển hàng hóa và các khoản tiền hỗ trợ để thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước cũng phải chịu cùng mức phạt là 30 triệu đồng.

Ngoài ra, trong việc lập phương án tính giá hàng hóa, dịch vụ, mức phạt tiền là 15 triệu đồng đối với hành vi lập phương án tính giá hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá, bình ổn giá theo quy định của pháp luật không đúng với hướng dẫn về Quy chế tính giá do cơ quan có thẩm quyền quyết định.

Nghị định cũng quy định cụ thể về mức phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả đối với các vi phạm hành chính trong hoạt động kinh doanh đặc thù có điều kiện theo quy định của Chính phủ; đăng ký giá, kê khai giá hàng hóa, dịch vụ; niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ; đối với hành vi đưa tin thất thiệt về thị trường, giá cả hàng hóa, dịch vụ…

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2011; bãi bỏ Nghị định số 169/2004/NĐ-CP ngày 22/09/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá; bãi bỏ các Điều 6, 7, 8 và 9 của Nghị định số 107/2008/NĐ-CP ngày 22/09/2008 quy định xử phạt hành chính các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá quá mức, đưa tin thất thiệt, buôn lậu và gian lận thương mại.

Bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù

Ngày 16/09/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2011/NĐ-CP quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù.

Theo đó, người chấp hành xong án phạt tù được chính quyền địa phương và cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tạo điều kiện giúp đỡ để tái hòa nhập cộng đồng; được đăng ký thường trú, tạm trú theo quy định của pháp luật về cư trú; được quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận xóa án tích khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và được đề nghị cấp Phiếu lý lịch tư pháp khi có nhu cầu.

Người chấp hành xong án phạt tù phải trở về nơi cư trú và xuất trình Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù hoặc Giấy chứng nhận đặc xá với Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, đơn vị công tác cũ theo đúng thời gian quy định; chịu sự quản lý, giáo dục, giám sát của chính quyền địa phương, đơn vị, tổ chức xã hội và nhân dân nơi cư trú, công tác, học tập trong thời gian chưa được xóa án tích… thời sự, chính sách, pháp luật, thông tin về tình hình kinh tế - xã hội, về thị trường lao động, giáo dục kỹ năng sống, trang bị kiến thức cần thiết khác và hỗ trợ các thủ tục pháp lý cho phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù.

Đồng thời, phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam phải được tư vấn, trợ giúp về tâm lý nhằm định hướng và nâng cao khả năng tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc của bản thân khi chấp hành xong án phạt tù. Các trại giam, trại tạm giam phải bố trí phòng tư vấn có trang bị những điều kiện cần thiết phục vụ cho việc tư vấn; bố trí cán bộ có khả năng thực hiện việc tư vấn cho phạm nhân hoặc có thể mời người có khả năng tư vấn kết hợp với cán bộ trại tổ chức tư vấn cho phạm nhân.

Các trại giam thành lập quỹ hòa nhập cộng đồng từ nguồn kinh phí thu được do kết quả lao động của phạm nhân để hỗ trợ hoạt động hòa nhập cộng đồng và chi hỗ trợ cho phạm nhân khi chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng; tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê việc thu chi quỹ hòa nhập cộng đồng theo quy định của pháp luật về kế toán, thống kê; công khai việc quản lý và sử dụng quỹ theo quy định của pháp luật.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 16/11/2011.

Thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2011/NĐ-CP ngày 16/09/2011 quy định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc, trong đó có các quy định về thuốc tiêm, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và Ủy ban nhân dân các cấp trong thi hành án tử hình cũng như chế độ, chính sách đối với người tham gia thi hành án tử hình.

Cụ thể, thuốc tiêm để sử dụng cho thi hành án tử hình bao gồm: Thuốc dùng để gây mê (Sodium thiopental); thuốc dùng để làm liệt hệ thần kinh và cơ bắp (Pancuronium bromide); thuốc dùng để ngừng hoạt động của tim (Potassium chloride).  

Một liều gồm 03 loại thuốc nêu trên. Thuốc để sử dụng cho thi hành án tử hình do Bộ Y tế cấp theo đề nghị của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Việc bàn giao thuốc phải được lập biên bản giao, nhận; niêm phong, quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật.

Cũng theo Nghị định này, người tham gia đội thi hành án tử hình và bác sĩ xác định tĩnh mạch được hưởng chế độ bồi dưỡng bằng 02 lần mức lương tối thiểu chung cho mỗi lần thi hành án và được nghỉ dưỡng 10 ngày theo quy định chung về chế độ nghỉ dưỡng đối với cán bộ, chiến sĩ trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân.

Người tham gia hội đồng thi hành án tử hình, bác sĩ pháp y, cán bộ chuyên môn, người thực hiện lăn tay người bị thi hành án tử hình, khâm liệm, an táng tử thi được hưởng chế độ bồi dưỡng bằng 01 lần mức lương tối thiểu chung quy định cho mỗi lần thi hành án. Những người tham gia khác được hưởng chế độ bồi dưỡng bằng 1/2 mức lương tối thiểu chung cho mỗi lần thi hành án.

Trường hợp thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của người bị kết án tử hình được nhận tử thi về mai táng thì phải tự chịu chi phí đưa đi chuyển tử thi và phải cam kết chấp hành đúng quy định của pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự.

Ngoài các quy định nêu trên, Nghị định còn có các quy định cụ thể về trang bị, phương tiện sử dụng cho thi hành án tử hình; quy trình thực hiện tiêm thuốc; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và Ủy ban nhân dân các cấp trong thi hành án tử hình…

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 01/11/2011; những quy định trước đây của Chính phủ về thi hành án tử hình trái với Nghị định này đều bãi bỏ.

Chăm sóc, quản lý học sinh trường giáo dưỡng

Ngày 16/09/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81/2011/NĐ-CP quy định chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế; chế độ sinh hoạt, học tập; chế độ thăm người thân; nhận, gửi thư, nhận tiền, quà và quản lý học sinh trường giáo dưỡng theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Theo Nghị định này, chế độ chăm sóc, quản lý học sinh trường giáo dưỡng thực hiện theo quy định tại các Điều 25 Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24/11/2003 quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng; quy định tại các khoản 17, 18, 19, 20, điểm 1 khoản 21, khoản 23 Điều 1 Nghị định số 66/2009/NĐ-CP ngày 01/08/2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP và quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 118/2010/NĐ-CP ngày 29/12/2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều số điều của các Nghị định quy định về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng.

Cũng tại Nghị định này, Chính phủ giao Bộ Công an chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện và hướng dẫn, kiểm tra, việc thi hành Nghị định này; các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/11/2011; bãi bỏ các Điều 17, 18, 19 Nghị định số 52/2011/NĐ-CP ngày 23/08/2001 về hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa người vào trường giáo dưỡng.

Danh mục các nhóm phương tiện, thiết bị phải dán nhãn năng lượng

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 51/2011/QĐ-TTg ngày 12/09/2011 quy định danh mục phương tiện, thiết bị phải dán nhãn năng lượng, áp dụng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu và lộ trình thực hiện.

Danh mục phương tiện, thiết bị phải dán nhãn năng lượng và áp dụng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu được chia ra thành 04 nhóm; trong đó, nhóm thiết bị gia dụng gồm: Đèn huỳnh quang ống thẳng, đèn huỳnh quang compact, chấn lưu điện tử cho đèn huỳnh quang, máy điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh, máy giặt sử dụng trong gia đình, nồi cơm điện, quạt điện, máy thu hình.

Nhóm thiết bị văn phòng và thương mại gồm: Máy phôtô copy, màn hình máy tính, máy in, tủ giữ lạnh thương mại. Nhóm thiết bị công nghiệp gồm: Máy biến áp phân phối, động cơ điện. Nhóm phương tiện giao thông vận tải gồm: Xe ôtô con (loại 07 chỗ trở xuống).

Lộ trình thực hiện dán nhãn năng lượng tự nguyện đối với nhóm thiết bị gia dụng và nhóm thiết bị công nghiệp được khuyến khích thực hiện đến hết ngày 31/12/2012; ừ ngày 01/01/2013 thực hiện dán nhãn năng lượng theo hình thức bắt buộc.

Đối với nhóm thiết bị văn phòng và thương mại, việc thực hiện dán nhãn năng lượng tự nguyện được khuyến khích; từ ngày 01/01/2014 thực hiện dán nhãn năng lượng bắt buộc đối với tủ giữ lạnh thương mại.

Việc dán nhãn năng lượng tự nguyện đối với nhóm phương tiện vận tải được khuyến khích thực hiện đến hết ngày 31/12/2014; từ 01/01/2015 thực hiện dán nhãn năng lượng theo hình thức bắt buộc.

Về lộ trình áp dụng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu, Quyết định yêu cầu: Không được phép nhập khẩu và sản xuất các thiết bị có hiệu suất năng lượng thấp hơn mức hiệu suất năng lượng tối thiểu từ ngày 01/01/2014 đối với nhóm thiết bị gia dụng; từ 01/01/2015 đối với nhóm thiết bị công nghiệp, thiết bị văn phòng và thương mại; từ 01/01/2013 đối với các loại đèn sợi đốt công suất lớn hơn 60W.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/11/2011.

Quy định các chức danh tương đương để xét khen thưởng trong ngành Công an nhân dân

Ngày 08/09/2011, Liên bộ Công an, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BCA-BNV quy định các chức danh tương đương để xét khen thưởng đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy có quá trình cống hiến trong Công an nhân dân (CAND).

Thông tư này áp dụng đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy từ cấp Trung đoàn và tương đương trở lên trong CAND đang công tác, đã nghỉ chế độ, đã chuyển công tác ra ngoài CAND hoặc đã hy sinh, từ trần có thành tích đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và có quá trình cống hiến trong CAND.

Người được xếp chức danh tương đương là người được cấp có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm giữ chức vụ (hoặc công nhận giữ chức vụ được bầu cử) làm công tác lãnh đạo, chỉ huy trong các đơn vị CAND, có cùng hệ số phụ cấp chức vụ với chức danh được xét khen thưởng do Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 của Chính phủ quy định.

Mỗi cán bộ lãnh đạo, chỉ huy có quá trình cống hiến chỉ được xét khen thưởng một lần vào năm cuối của quá trình công tác (trước khi nghỉ chế độ), với một hình thức khen thưởng cao nhất tương ứng với chức vụ đảm nhiệm theo tiêu chuẩn do Luật Thi đua, khen thưởng quy định.  Những cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đã nghỉ chế độ, hy sinh, từ trần có quá trình cống hiến đủ tiêu chuẩn quy định được xét đề nghị tặng hoặc truy tặng hình thức khen thưởng cao nhất tương ứng với chức vụ đảm nhiệm theo tiêu chuẩn do Luật Thi đua, khen thưởng quy định.

Cũng theo Thông tư này, không khen thưởng đối với các trường hợp bị kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng, bị kỷ luật buộc thôi việc, bị loại ngũ, bị tước danh hiệu CAND, bị tòa án tuyên có tội; chưa xét khen thưởng đối với các trường hợp bị kỷ luật nhưng chưa hết thời hiệu của quyết định kỷ luật hoặc các trường hợp đang xét kỷ luật; hạ một mức khen thưởng đối với cá nhân đã từng bị một trong các hình thức kỷ luật: cách chức, giáng chức, giáng cấp, hạ bậc lương.

Cá nhân trong quá trình công tác đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau, thì lấy chức vụ cao nhất để làm căn cứ áp dụng tiêu chuẩn khen thưởng. Trường hợp thời gian giữ chức vụ cao nhất của cá nhân, chưa đảm bảo thời gian theo tiêu chuẩn khen thưởng đối với chức vụ đó, thì cộng thêm thời gian giữ chức vụ thấp hơn liền kề để tính tiêu chuẩn khen thưởng theo chức vụ thấp hơn liền kề.

Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/11/2011.

www.thuathienhue.gov.vn
       
CÁC TIN KHÁC
Xem theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 10.870.007
Truy cập hiện tại 178 khách